Các phương pháp nuôi dưỡng qua ống thông.
Có ba phương pháp chính nuôi dưỡng qua ống thông là nhỏ giọt liên tục (continuous), nhỏ giọt ngắt quãng (intermittent) hoặc bơm trực tiếp (bolus) vào đường tiêu hóa. Đây là những phương pháp thông dụng nhất. Giúp cung cấp đầy đủ dinh dưỡng cho bệnh nhân không thể ăn uống bằng đường miệng.
Nuôi ăn nhỏ giọt liên tục (Continuous)
Ưu điểm của nuôi ăn nhỏ giọt liên tục
Trong ba phương pháp nuôi dưỡng thì phương pháp nhỏ giọt liên tục có nhiều ưu điểm hơn. Vì tránh được việc đưa một khối lượng lớn với tốc độ nhanh dung dịch nuôi dưỡng vào đường tiêu hóa. Nó gây nên hiện tượng quá tải, chướng bụng, tiêu chảy, tăng nhanh nhu động ruột và có thể trào ngược vào phổi.
Tuy nhiên, trong thực tế phương pháp này có thể dùng nuôi trong vài giờ. Để kích thích việc ăn qua đường miệng và nên thực hiện vào ban đêm đề đảm bảo cung cấp đủ nhu cầu dinh dưỡng cho bệnh nhân.
Cách thực hiện
Phương pháp này thường được áp dụng cho trẻ sơ sinh, khi tình trạng bệnh nhân quá nặng. Khi nuôi qua tá tràng hoặc hỗng tràng. Đối với người lớn, không cho quá 40 – 60ml/giờ trong 8 – 24 giờ.
Đối với trẻ em không quá 20 – 40ml/giờ trong 8 – 12 giờ đầu. Có thể tăng dẫn lượng sữa để tăng dần khả năng dung nạp đổi với sữa công thức. Tốc độ này xấp xỉ khoảng 25ml mỗi 8 – 12 giờ. Tốc độ tối đa cho phép là 50 – 100ml/giờ cho mỗi 8 – 12 giờ.
Sữa nhược trương (300mos/kg) có thể cho khởi đầu với đậm độ toàn phần. Còn với sữa ưu trương (500mos/kg) thì nên khởi đầu bằng việc pha loãng một nửa. Khi cho ăn bằng cách đưa thức ăn trực tiếp qua tá tràng hay ruột non, cần theo dõi chặt chẽ trong vòng hai tuần hoặc hơn.
Lưu ý khi sử dụng sữa công thức
Trường hợp không dung nạp sữa công thức thì nồng độ nên giảm còn một nửa và tăng dần lên đến nồng độ tối đa khi dung nạp được hoàn toàn. Tốc độ cũng có thể giảm và tăng dần lên để phù hợp với nhu cầu bệnh nhân. Tốc độ và đậm độ không nên gia tăng cùng một lúc.
Sữa công thức cho ăn theo phương pháp nhỏ giọt liên tục không được phép treo đề lâu quá 4 – 8 giờ và sữa phải mới, không nên thêm vào sữa cũ đang còn.
Khi cho ăn bằng cách đưa thức ăn trực tiếp qua tá tràng hay ruột non, cần theo dõi chặt chẽ trong vòng hai tuần hoặc hơn.
Trường hợp không dung nạp sữa công thức thì nồng độ nên giảm còn một nửa. Tăng dần lên đến nồng độ tối đa khi dung nạp được hoàn toàn. Tốc độ và đậm độ không nên gia tăng cùng một lúc.
Ngoài ra, sữa công thức cho ăn theo phương pháp nhỏ giọt liên tục không được treo quá 4 – 8 giờ và phải sử dụng sữa mới. Không nên thêm sữa mới vào phần sữa cũ còn lại.

Nuôi ăn nhỏ giọt ngắt quãng (Intermittent)
Đặc điểm và lợi ích
Phụ thuộc vào tình trạng bệnh nhân cho phép. Phương pháp này cho phép các bệnh nhân có thời gian được nghỉ ngơi và tự chủ nhiều hơn so với nhỏ giọt liên tục.
Những cách cho ăn này có thể được cung cấp bởi cái bơm trọng lực. Các bữa ăn trong ngày được phân bố từ 4 – 6 bữa/ngày. Và được chỉ định ngắt quãng 20 – 60 phút.
Cách áp dụng
Công thức chỉ định thường bắt đầu từ 100 – 150 ml/bữa và tăng dần cho đến khi cơ thể chấp nhận được.
Sự thành công của phương pháp này phụ thuộc phần lớn vào mức độ của sự thay đổi, sự tỉnh táo và sự thúc đẩy của bệnh nhân đẻ chấp nhận chế độ ăn.
Nuôi nhỏ giọt ngắt quãng cũng như bơm ăn từng bữa không nên sử dụng với những bệnh nhân khó thở.
Nuôi ăn bằng cách bơm trực tiếp (Bolus)
Nguyên tắc và cách thực hiện
Tổng lượng thức ăn trong ngày được chia đều thành nhiều bữa (thường 6 bữa/ngày), trung bình khoảng 300 – 400ml/bữa.
Với bệnh nhân nặng, lúc đầu có thể cho từ 100ml, sau đó tăng dần lên đến mức mong muốn. Thức ăn nhược trương có thể dùng toàn phần. Thức ăn ưu trương nên pha loãng một nửa trong ngày đầu tiên.
Thời gian bơm thức ăn ít nhất là 15 phút.
Cung cấp nước và vệ sinh ống thông
Nước cho thêm sau khi ăn khoảng 30 – 60ml để ngăn ngừa mất nước ưu trương do lượng chất tan quá tải. Đồng thời để súc rửa ống thông vì protein trong ống thông có xu hướng đông vón lại khi nó tiếp xúc với acid dạ dày và gây tắc nghẽn ống.
Ngoài ra, nước còn có vai trò trong việc hấp thu thức ăn ăn vào. Điều này thường phù hợp với những loại thức ăn có đậm độ năng lượng cao 1 – 2kcal/1ml thức ăn.
Người lớn: cần 35 – 50ml nước/kg trọng lượng cơ thể.
Trẻ em: cần 70 – 100ml/kg; trẻ nhũ nhi là khoảng 150ml/kg.
Hầu hết các loại sữa công thức chứa 80 – 85% nước.
Tư thế và theo dõi khi cho ăn
Khi đã nuôi ăn 5 ngày mà lượng thức ăn được dung nạp vẫn không đáp ứng đủ nhu cầu dinh dưỡng của bệnh nhân thì những thức ăn có đậm độ năng lượng cao hơn nên được chỉ định.
Bơm thức ăn trực tiếp qua ống thông vào đường tiêu hóa có thể sử dụng được cho bệnh nhân trong bệnh viện và cũng có thể dùng được ở nhà. Nơi không có sẵn bơm điện.
Nuôi ăn bằng cách bơm trực tiếp được chỉ định rộng rãi cho bệnh nhân ở nhiều tư thế khác nhau như đứng, ngồi hoặc nằm đầu cao 30°. Trường hợp bệnh nhân nặng nên duy trì tư thế nằm đầu cao 30° trong khi cho ăn. Sau đó ít nhất 30 phút để hạn chế nguy cơ trào ngược thức ăn vào đường hô hấp. Điều này cũng được áp dụng đối với nuôi ăn nhỏ giọt liên tục qua sonde mũi – dạ dày.
Khi áp dụng phương pháp nuôi ăn bằng cách bơm trực tiếp cần chú ý kiểm tra lượng thức ăn còn đọng lại trong dạ dày. Bằng cách hút dịch dạ dày kiểm tra để đảm bảo rằng còn lại rất ít lượng thức ăn chưa được tiêu hóa của lần ăn trước.
Lượng thức ăn chưa tiêu này có thể gây tắc nghẽn hoặc khó tiêu ở dạ dày. Vì vậy, cần giải quyết vấn đề này trước khi tiếp tục cho ăn. Lượng thức ăn còn lại trong dạ dày ở mức cho phép tối đa là 100 – 150ml.
Tính lượng dịch nuôi ăn qua ống thông
Nếu nuôi qua ống thông hoàn toàn thì tùy theo từng bệnh nhân mà có số lượng dịch nuối phải đủ nhu cầu năng lượng và các chất dinh dưỡng cho người bệnh. Trong những trường hợp bệnh nhân còn ăn qua miệng, nuôi qua sonde chỉ là hỗ trợ thì cần phải tính lượng dinh dưỡng đã ăn qua miệng, phần còn lại là của nuôi qua sonde.
Tai biến và biến chứng của nuôi dưỡng qua ống thông
Các tai biến và biến chứng liên quan đến sonde đặt qua mũi vào dạ dày hoặc tá tràng hay ruột non bao gồm:
Biến chứng đường hô hấp
Các tai biến và biến chứng đường hô hấp như: khó chịu vùng mũi họng, ăn mòn và hoại tử mũi, loét thanh quản, nhiễm trùng tai, mũi như viêm xoang cấp, viêm tai giữa, dò khí quản, thực quản, đặt sonde nhầm chỗ vào đường thở.
Việc đặt nhầm ống thông vào khí quản hoặc phế quản có thể gây hít phải thức ăn vào đường hô hấp và tràn khí màng phổi và là nguy cơ của ăn mòn thực quản. Những bệnh nhân dễ bị nguy cơ đặt nhầm nhất là bệnh nhân có rối loạn phản xạ nuốt hoặc suy yếu phản xạ đóng.
Biến chứng đường tiêu hóa
Ăn mòn và hoại tử thực quản, ăn mòn và hẹp thực quản, trào ngược và viêm thực quản, thủng dạ dày, tá tràng.
Tác ống thông
Đây là một biến chứng thường gặp. Sự kết tủa protein trong thức ăn do pH acid và do tác động của một số thuốc khi bơm qua sonde là nguyên nhân quan trọng của tắc ống thông. Hiệu quả của nuôi dưỡng qua sonde đặt qua mũi vào dạ dày, ruột sẽ bị ảnh hưởng và giảm do tắc sonde, thắt nút hoặc vỡ sonde thứ phát.
Do áp lực cao của dung dịch nuôi dưỡng trong ống thông xảy ra trong quá trình nuôi dưỡng. Tình trạng này có thể giảm được nếu có sự theo dõi và chăm sóc chu đáo đồng thời có thể hạn chế được bằng việc rửa ống thông trước và sau khi cho ăn hoặc dùng thuốc. Ống thông nên được rửa bằng coca cola hoặc cranberry hoặc tốt nhất là bằng nước ấm.
Đọc thêm: Nuôi dưỡng qua ống thông
Một số biến chứng thường gặp
Trào ngược
Có nguy cơ tiềm tàng và nguy hiểm nhất của nuôi dưỡng qua đường tiêu hóa là sự trào ngược. Có một số yếu tố nguy cơ dẫn đến hiện tượng trào ngược. Như sự lạc chỗ của đầu sonde vào thực quản hoặc đoạn trên của dạ dày, dạ dày đầy dịch và hơi. Sự giảm áp lực của cơ thắt đoạn dưới thực quản và các thuốc đi cùng có tác dụng làm giảm nhu động của dạ dày, ruột.
Việc giãn nở của dạ dày gây ra bởi việc đưa nhanh một khối lượng lớn dịch nuôi dưỡng. Có thể làm giảm trương lực của cơ thắt do đó dễ dẫn đến tình trạng trào ngược. Tỷ lệ trào ngược còn tùy thuộc vào từng bệnh nhân, theo thống kê chiếm khoảng 1% tổng số bệnh nhân.
Nguy cơ trào ngược có thể giảm được nhờ việc nâng cao giường 30 – 45° suốt quá trình ăn và 30 – 45 phút sau khi ăn.
Tiêu chảy
Đây là biến chứng hay gặp nhất khi nuôi dưỡng đường tiêu hoá, tiêu chảy được xác định khi đi ngoài > 3 lần/ngày. Tình trạng tiêu chảy phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau. Như bất dung nạp lactose, thức ăn có nồng độ thẩm thấu cao, tốc độ đưa thức ăn vào quá nhanh. Thức ăn nhiễm phải vi khuẩn, liệu pháp kháng sinh kèm theo, hoặc tổn thương ống tiêu hoá.
Tiêu chảy do áp lực thẩm thấu là hay gặp nhất trong nuôi dưỡng qua sonde. Các dịch nuôi dưỡng đẳng trương ít gây tiêu chảy hơn các dịch nuôi dưỡng ưu trương. Vì dịch nuôi dưỡng ưu trương hút nước vào trong lòng ruột ở đoạn trên ống tiêu hoá.
Tốc độ nuôi dưỡng quá nhanh cũng gây nên tiêu chảy. Ở người lớn khỏe mạnh, hệ thống dạ dày ruột có thể chịu đựng được thể tích tối đa đưa vào trong vòng 10 – 15 phút. Tốc độ nuôi dưỡng tối đa mà bệnh nhân có thể chịu dựng theo phương pháp nhỏ giọt liên tục là 18ml/kg/giờ.
Đọc thêm: Bệnh gan – Dinh dưỡng trong điều trị
Yếu Tố gây tiêu chảy
Một yếu tố rất quan trọng gây tiêu chảy ở bệnh nhân nuôi ăn qua sonde là sử dụng các thuốc. Đặc biệt là dùng kháng sinh và các thuốc kháng acid có chứa magnesium. Có gần một nửa số bệnh nhân bị tiêu chảy khi nuôi qua sonde ở nhóm có dùng kháng sinh.
Sự nhiễm khuẩn của thức ăn cũng là một nguyên nhân gây nên tình trạng tiêu chảy. Vì vậy, điều cần thiết là phải đảm bảo kỹ thuật vô trùng tránh tình trạng dịch nuôi bị ô nhiễm.
Không nên dùng dung dịch nuôi kéo dài quá 4 giờ. Để hạn chế tối đa việc tiếp xúc với nhiệt độ của môi trường. Các túi đựng dung dịch nuôi dưỡng cũng nên được thay đổi thường xuyên để tránh sự nhân lên của vi khuẩn.
Mất nước và rối loạn điện giải
Mất nước có thể xảy ra khi dùng dung dịch ưu trương. Cần theo dõi sát để bổ sung dịch và điện giải, đặc biệt là natri, kali, magie, phospho.
Trường hợp tăng natri máu, giảm kali hoặc magie máu cần được điều chỉnh kịp thời để tránh các biến chứng về tim, phổi và thần kinh.
Táo bón
Đây cũng là một trong những biến chứng có thể gặp ở khoảng 15% tổng số bệnh nhân được nuôi dưỡng qua sonde trong thời gian dài. Táo bón có thể gây ảnh hưởng đến sự dung nạp đối với nuôi dưỡng đường ruột. Cần phải theo dõi chặt chẽ, cung cấp nước đầy đủ, tăng các hoạt động cơ học. Và có thể sử dụng một số thuốc khi bị táo bón để nhằm cải thiện tình hình.

Một số biến chứng ít xảy ra
Một biến chứng ít gặp hơn đó là sự kém lưu thông của dạ dày và chướng bụng. Có thể là do dùng thuốc giảm đau gây nghiện, sự giảm trương lực dạ dày. Hoặc trên bệnh nhân bị các bệnh mãn tính như đái tháo đường, viêm tụy mạn và suy dinh dưỡng.
Cần phải theo dõi lượng dịch tồn dư trong dạ dày. Bằng cách đo vòng bụng, kiểm tra nhu động ruột để phát hiện sớm các biến chứng này. Trong trường hợp cần thiết có thể sử dụng một số thuốc đối với bệnh nhân bị chậm lưu thông dạ dày.
Hội chứng rối loạn chuyển hóa
Refeeding là kết quả của sự đảo ngược trong hệ thống nội tiết. Gồm insulin, hormon giáp trạng và adrenergic, gây ra tình trạng tăng chuyển hóa cơ bản và tái xây dựng các mô cơ thể bị mất. Với glucose trở thành nguồn năng lượng chủ yếu. Các biến chứng rối loạn chuyển hóa gây ra do nuôi dưỡng đường ruột là tăng glucose máu, rối loạn điện giải và tăng giải phóng CO2.
Sự tăng glucose máu và đường niệu là do đưa một lượng quá lớn glucose vào cơ thể. Hoặc là do tăng sản xuất glucose nội sinh. Theo dõi chặt chẽ glucose máu và niệu, dùng thêm insulin theo liều từng đợt hoặc liên tục sẽ đảm bảo duy trì đủ theo tình trạng bệnh.
Không cần ngừng nuôi dưỡng đường ruột khi glucose máu tăng. Sự tăng glucose đột xuất ở bệnh nhân trước đó glucose bình thường có thể là dấu hiệu của sự phát triển nhiễm khuẩn máu.
Mất nước
Có thể xảy ra khi nuôi dưỡng bằng các dung dịch có áp lực thẩm thấu cao. Do vậy, cần theo dõi chặt chẽ để xử lý kịp thời. Rối loạn điện giải thường là hậu quả của quá trình mất nước hoặc là không chịu được với protein. Cần theo dõi sát để phát hiện và điều chỉnh.
Điều trị tình trạng tăng natri máu hoặc không dung nạp với protein thể hiện bằng tăng ure máu, tăng hematocrit. Bao gồm việc truyền dịch nhằm bảo đảm dự trữ nước. Giảm kali máu thường đi kèm với tiêu chảy và tăng tiết dịch dạ dày. Giảm kali và magie máu thường đi cùng với sự gia tăng của giảm phospho máu. Những sự thay đổi nhanh chóng về mặt chuyển hóa này có thể dẫn đến các vấn đề nghiêm trọng về tim, phổi và thần kinh. Bao gồm: suy tim, phổi, phù, thờ ơ, ngủ lịm, lú lẫn, hôn mê, co giật và tử vong.
Đọc thêm: Phân loại thực phẩm chức năng – Thức ăn qua ống thông dạ dày
Buồn nôn và nôn
Có thể xảy ra ở khoảng 20% số bệnh nhân. Các triệu chứng không điển hình bao gồm co cứng cơ bụng, chướng bụng. Xảy ra do việc đưa vào quá nhanh một lượng lớn thức ăn trong thời gian ngắn. Hoặc là do sự rối loạn chức năng của ruột.
Các rối loạn chuyển hóa xảy ra đối với các bệnh nhân được nuôi qua đường tiêu hóa phụ thuộc vào tình trạng bệnh tật sẵn có trên từng bệnh nhân. Bệnh nhân suy thận thường hay xảy ra tăng kali, magie và phospho máu, dư đạm trong máu (azotemia). Các bệnh lý này không chống chỉ định đối với nuôi qua sonde. Điều quan trọng là cần chăm sóc chu đáo để tránh được các biến chứng này.
Đọc thêm:
Tổng quan về nuôi dưỡng qua ống thông
Quy trình kĩ thuật nấu thức ăn qua ống thông









































