Mang thai là một trạng thái sinh lý bình thường, nhưng dễ mất ổn định và có thể trở thành trạng thái bệnh lý. Có thể gặp như nhiễm độc thai nghén, rau tiền đạo, đẻ khó… Những người mẹ có bệnh khi mang thai thì bệnh càng nặng thêm. Thậm chí ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe, đe dọa cuộc sống của người mẹ (bệnh tim, bệnh viêm thận mạn). Những người mẹ gầy yếu thường có chế độ dinh dưỡng kém. Khi mang thai càng làm cho người mẹ đó gầy và yếu hơn. Dễ sinh bé nhẹ cân, suy dinh dưỡng. Do đó, chăm sóc dinh dưỡng cho phụ nữ có thai và cho con bú là một việc làm hết sức cần thiết, hạn chế đáng kể tỷ lệ trẻ đẻ ra nhẹ cân (dưới 2500g).

Trong quá trình mang thai, cần được khám thai ít nhất là 3 lần vào ba thời kỳ của quá trình thai nghén và được đăng ký quản lý thai tại cơ sở y tế. Chúng ta cần chuẩn bị tốt trước và trong mang thai để con bạn được sinh ra khỏe mạnh và thông minh. Vì vậy, chăm sóc 1000 ngày đầu đời của bé là vô cùng quan trọng.

Bạn nên đi khám thai ít nhất 3 lần, mỗi quý thai kỳ 1 lần tại các cơ sở y tế. Để theo dõi sức khỏe của thai nhi và bạn, đồng thời nhận được những tư vấn về dinh dưỡng.

Mục đích: xác định có thai, đánh giá các chỉ số thông thường, phát hiện bất thường ở thai nhi và bạn. Đánh giá cân nặng của bạn và bắt đầu theo dõi cân nặng, tư vấn dinh dưỡng…

Xác định có thai dựa trên các biểu hiện sớm như: có chậm kinh, có thể có nghén, nôn vào buổi sáng, vú to nhanh, quầng và đầu vú thâm lại. Thăm âm đạo kết hợp với sờ nắn bụng thấy tử cung to lên theo sự phát triển của thai nhi, tử cung mềm…

Phương pháp thăm khám: đếm mạch, đo huyết áp, đo chiều cao, cân nặng, khám tim, phổi, gan, thận, thử nước tiểu để phát hiện những bệnh của bạn từ đó có thái độ xử trí kịp thời. Ghi kết quả chi tiết vào hồ sơ sau khi thăm khám. Trong sổ theo dõi phải ghi rõ họ tên, tuổi, địa chỉ, có thai lần thứ mấy, tiền sử sinh đẻ các lần trước, ngày kinh cuối cùng. Kết quả thăm khám và kết quả xét nghiệm, hẹn ngày khám lại lần sau.

Tư vấn dinh dưỡng: giai đoạn 3 tháng đầu thai kỳ rất quan trọng. Bạn cần cân kiểm tra, ghi lại để theo dõi cân nặng thường xuyên, uống viên sắt bổ sung. Có thể uống thêm vitamin theo chỉ định của bác sĩ sau khi thăm khám thai.

Lưu ý: đây là giai đoạn hình thành các tổ chức của cơ thể như não, tim, phổi, gan… Nên cần tăng cường các thực phẩm giàu đạm như trứng, sữa, thịt, đậu đỗ.

Mục đích: phát hiện các bất thường thai nhi, đưa ra các giải pháp can thiệp phù hợp.

Phương pháp thăm khám: đến mạch, đo huyết áp, đo chiều cao, cân nặng, khám tổng quát. Siêu âm để đánh giá chính xác về thai nhi, các chỉ số phát triển, tình trạng rau thai, nước ối… Đặc biệt chú ý tới những tiền sử bệnh lý, có thể có những nguy cơ tác động đến sức khỏe nhất định trong quá trình mang thai.

Tư vấn dinh dưỡng: cân để kiểm tra cân nặng và ghi vào bảng để theo dõi, tiếp tục sử dụng viên bổ sung sắt acid folic và vitamin theo chỉ định của cán bộ y tế. Dựa vào kết quả siêu âm, về sự tăng trưởng, chỉ số phát triển thai nhi để điều chỉnh chế độ dinh dưỡng phù hợp.

Lưu ý: đây là giai đoạn phát triển về khung xương, chiều cao của trẻ nên chú ý ăn các thực phẩm giàu canxi, kẽm như tôm, cua, trứng, sữa, ốc, hến.

Mục đích: Tiên lượng cuộc đẻ, theo dõi thường xuyên để kiểm soát những thay đổi.

Trong 3 tháng cuối, có thể khám 2 tuần một lần nếu có điều kiện và tháng thứ 9 cứ mỗi tuần khám một lần.

Đối với bạn: phải khám kỹ đề phát hiện những bệnh toàn thân. Đặc biệt chú ý tới những dấu hiệu nhiễm độc thai nghén thông qua việc đo huyết áp, thử protein trong nước tiểu và cân nặng thai phụ. Phải đo khung chậu, xem đường kính có méo, có hẹp quá không. Khám xem bạn có sẹo mổ cũ ở tử cung hay không (mổ đẻ, mổ bóc tách nhân xơ, mổ tạo hình tử cung đôi…).

Đối với thai nhi: đo chiều cao tử cung, đo vòng bụng, sờ và chẩn đoán ngôi, nghe tim thai, dự kiến ngày sinh.

Tư vấn dinh dưỡng: giai đoạn 3 tháng cuối thai kỳ là giai đoạn tốc độ phát triển cân nặng của thai nhi nhanh nhất. Vì vậy dinh dưỡng của bạn cần đảm bảo đầy đủ, đa dạng đáp ứng nhu cầu của thai nhi. Đặc biệt ăn tăng năng lượng bữa ăn như cơm, chất béo.

Đề đảm bảo cho bạn không bị uốn ván sau sinh, đảm bảo cho con không bị uốn ván rốn sơ sinh. Phải tiêm đủ 2 mũi, mỗi mũi cách nhau 1 tháng và trước khi đẻ ít nhất một tháng.

Chế độ dinh dưỡng có mức độ ảnh hưởng rất lớn tới sức khỏe của mẹ và sự phát triển của thai nhi. Dinh dưỡng tốt, không chỉ giúp người mẹ đáp ứng đầy đủ các hoạt động, sinh hoạt hàng ngày của cơ thể. Nó còn đáp ứng những thay đổi sinh lý về chuyển hóa, tích lũy mỡ, tăng cân, tăng khối lượng tử cung do mang thai.

Sữa mẹ được hình thành dần thông qua quá trình tích lũy mỡ, các chất khoáng cần thiết… Trong giai đoạn mang thai, sẽ là nguồn thức ăn chủ yếu, duy nhất cho trẻ sơ sinh. Vì vậy, chế độ dinh dưỡng, cách ăn uống của người phụ nữ khi mang thai đặc biệt quan trọng. Mỗi người phụ nữ cần quan tâm tới khẩu phần ăn của mình lúc mang thai một cách khoa học. Mức độ tăng cân nặng hàng tháng phù hợp với chế độ dinh dưỡng đó.

Tăng cân là biểu hiện tích cực cho thấy sự phát triển của thai nhi. Tăng cân của người mẹ lúc mang thai phụ thuộc vào giai đoạn thai kỳ và tình trạng cơ thể khi chưa có thai.

Tùy theo tình trạng dinh dưỡng trước khi có thai để khuyến nghị mức tăng cân.

Mức tăng cân của bà mẹ và bào thai trong thai kỳ

Mức tăng cân3 tháng đầu (quý I)  3 tháng giữa (quý II)3 tháng cuối (quý III)
Mẹcân nặng hiện tại4 – 5 kg5 – 6 kg
Bào thai0,1 kg1 kg2 kg

Tình trạng dinh dưỡng tốt (BMI: 18,5 – 24,9): mức tăng cân nên đạt là 20% cân nặng trước khi có thai.

Tình trạng dinh dưỡng gầy (BMI < 18,5): mức tăng cân nên đạt 25% cân nặng trước khi có thai.

Tình trạng dinh dưỡng thừa cân – béo phì (BMI > 25): mức tăng cân nên đạt 15% cân nặng trước khi có thai.

Theo Tiêu chuẩn Quốc tế (FAO), mức tăng cân trung bình của phụ nữ Châu Á nên là 10 – 12kg. Trong đó 4kg là mỡ, tương đương 36.000 kcal. Đó là nguồn dự trữ để sản xuất sữa.

Các nghiên cứu của Viện BVSKBMTSS cho thấy cân nặng của mẹ trước khi có thai và sự tăng cân trong khi có thai ảnh hưởng rõ rệt đến cân nặng của trẻ sơ sinh. Mẹ có cân nặng trước khi có thai dưới 40kg, cân nặng trước khi đẻ dưới 47kg và tăng cân trong khi có thai dưới 5kg thì có nguy cơ đẻ con nhẹ cân < 2.500g.

Hiện nay, tỷ lệ trẻ có cân nặng khi sinh dưới 2.500g khoảng trên 10%. Tại các bệnh viện lớn, tập trung nhiều trường hợp đẻ khó, tỷ lệ này là 16,3%.

Hoạt động chuyển hóa trong cơ thể tăng, khối lượng cơ thể tăng… Dẫn tới nhu cầu về năng lượng của bà mẹ khi mang thai tăng lên so với chưa mang thai. Phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ (15 – 49 tuổi) mức năng lượng khuyến nghị hàng ngày là 2200kcal. Có thai 3 tháng giữa thai kỳ, khẩu phần ăn nên nhiều hơn sao cho cung cấp năng lượng tăng là 360kcal/ngày (tương đương 1 bát cơm đầy và thức ăn hợp lý). 3 tháng cuối nên tăng 475kcal/ngày (tương đương 2 miệng bát cơm và thức ăn hợp lý).

Người ta thấy có mối liên quan chặt chẽ giữa năng lượng trong khẩu phần, mức tăng cần của mẹ và cân nặng của trẻ sơ sinh. Vì vậy, năng lượng của khẩu phần thấp, làm cho mức tăng cân của thai phụ thấp kéo theo cân nặng sơ sinh cũng thấp. Ở nước ta hiện nay, phụ nữ có thai ở nông thôn thời kỳ 3 tháng cuối có năng lượng khẩu phần khoảng 2.000kcal/ngày, chỉ đạt 78% nhu cầu. Chủ yếu được cung cấp từ gạo: mức tiêu thụ gạo khoảng 500g mỗi ngày, dầu mỡ chỉ tiêu thụ khoảng 6g mỗi ngày. Điều đó làm cho sức khỏe bà mẹ kém đi, trẻ dễ bị thiếu dinh dưỡng từ trong bào thai.

Bổ sung chất đạm và chất béo giúp xây dựng và phát triển cơ thể thai nhi.

Ngoài cơm và lương thực khác ăn đủ no. Bữa ăn cho bà mẹ mang thai cần có thức ăn để bổ sung chất đạm và chất béo giúp việc xây dựng và phát triển cơ thể của trẻ. Trước hết cần chú ý đến các nguồn chất đạm từ các thức ăn thực vật như các loại đậu khác và vừng, lạc. Đây là những thức ăn rẻ hơn thịt, có hàm lượng đạm cao. Lại có lượng chất béo nhiều giúp tăng năng lượng bữa ăn và giúp hấp thu tốt các nguồn vitamin tan trong dầu. Chất đạm động vật đáng chú ý là từ các loại thủy sản như tôm, cua, cá, ốc… và có điều kiện nên cố gắng có thêm thịt, trứng, sữa.

Chất đạm đặc biệt quan trọng ở 3 tháng đầu cho việc tạo hình và xây dựng các tổ chức nội tạng trong cơ thể như tim, gan, phổi và nhất là tế bào thần kinh. Nhu cầu cần tăng 10 – 15g/ngày cho 6 tháng đầu và 12 – 18g/ngày cho 3 tháng cuối.

Các chất khoáng là các chất dinh dưỡng tuy chỉ cần một lượng nhỏ nhưng lại có vai trò quan trọng. Đặc biệt là giai đoạn cơ thể có nhu cầu cao về các chất dinh dưỡng cho phát triển như thời kỳ có thai.

Canxi: tham gia cấu tạo khung xương cho thai nhi. Canxi có nhiều trong tôm, cua, cá và sữa. Ngoài ra đậu tương là nguồn cung cấp canxi cao cho bữa ăn của người mẹ. Thay đổi nhiều loại thức ăn, bữa ăn sẽ có đủ khoáng chất.

Sắt: tham gia quá trình tạo máu, có nhiều trong thịt màu đỏ, cá, trứng sữa, các loại nhuyễn thể, trọng ngũ cốc, đậu đỗ các loại, vừng lạc và các rau củ màu xanh đậm. Sắt do thức ăn cung cấp thường không đáp ứng được nhu cầu gia tăng trong suốt thời gian mang thai. Với lý do này, bà mẹ có thai cần được bổ sung viên sắt.

Kẽm: tham gia vào phát triển chiều cao của trẻ từ trong bào thai và tăng miễn dịch cho trẻ. Nguồn cung cấp kẽm tốt nhất là thịt, cá, thủy hải sản. Đặc biệt là nhuyễn thể như ốc, hến, trai, trùng trục hay nghêu, sò… Các thức ăn thực vật cũng có kẽm nhưng hàm lượng thấp và hấp thu kém.

Trong cơ thể, vitamin cần thiết cho các chức phận chuyển hóa bình thường của cơ thể trong đó nó tham gia vào xây dựng tế bào và tổ chức trong cơ thể.

goài các tác dụng như sáng mắt, tăng đề kháng, còn có tác dụng tạo xương dài cho trẻ giúp trẻ có chiều cao tối đa theo tiềm năng. Thiếu vitamin A sẽ làm tăng tỷ lệ mắc các bệnh nhiễm trùng và tử vong, gây khô mắt, có thể dẫn đến mù lòa vĩnh viễn nếu không được điều trị. Người phụ nữ có thai cần đảm bảo đủ vitamin A suốt thời gian mang thai.

Sau khi sinh, người mẹ cần đủ vitamin A để cung cấp vitamin A cho sữa nuôi con. Sữa, gan, trứng… là nguồn vitamin A động vật, dễ dàng hấp thu và dự trữ trong cơ thể để dùng dần. Các loại rau xanh, nhất là rau ngót, rau dền, rau muống và các loại củ quả cỏ màu vàng, màu đỏ như cà rốt, đu đủ, xoài, bí đỏ, là những thức ăn có nhiều caroten cũng gọi là tiền vitamin A, vào cơ thể sẽ chuyển thành vitamin A.

Giúp hấp thu và chuyển hóa các chất khoáng cần thiết như canxi, phospho vào cơ thể. Khi mang thai nếu cơ thể thiếu vitamin D dễ gây các hậu quả như trẻ còi xương ngay trong bụng mẹ.

Vitamin B1: là yếu tố cần thiết đề chuyên hóa glucid. Ngũ cốc và các loại hạt họ đậu là nguồn vitamin B1 tốt. Đề có đủ vitamin B1 nên ăn gạo không giã trắng quá, không bị mục, mốc. Ăn nhiều đậu đỗ là cách tốt nhất để bổ sung đủ vitamin B cho nhu cầu của cơ thể và chống lại bệnh tê phù.

Acid folic: tham gia tạo máu và hình thành ống thần kinh. Nếu không đủ acid folic trẻ sinh ra sẽ bị dị dạng ống thần kinh. Nguồn cung cấp acid folic có nhiều trong các loại trái cây, rau xanh, trứng nhưng trong khẩu phần thường không đủ. Vì vậy người mẹ cần được bổ sung khi mang thai.

Ngoài ra, một số các vitamin khác như vitamin C làm tăng sức đề kháng của cơ thể, hỗ trợ hấp thu sắt từ bữa ăn góp phần phòng chống thiếu máu do thiếu sắt.

  • Không nên dùng các loại đồ uống kích thích như rượu, cà phê, thuốc lá, nước chè đặc.
  • Giảm ăn các loại gia vị như ớt, hạt tiêu, tỏi.
  • Giảm ăn mặn nhất là những người mẹ bị phù và tránh tai biến khi đè.

Trong khi có thai, người mẹ cần ăn nhiều hơn bình thường. Có một số người dễ bị chán ăn hay “ăn dở”. Chỉ ăn một vài loại thức ăn và ăn quá nhiều thức ăn chua hoặc cay. Vừa có hại cho sức khỏe vừa thiếu chất dinh dưỡng để nuôi thai. Trong trường hợp bị nghén nhẹ như buồn nôn, nôn hay sợ ăn một số thức ăn. Người mẹ cố gắng thay thế sang một số thức ăn hoặc đồ uống khác để đáp ứng được nhu cầu dinh dưỡng khi có thai.

Bà mẹ mang thai không nên kiêng khem sẽ bất lợi cho sức khỏe của mẹ và giảm lượng sữa tiết ra hàng ngày sau này. Những thực phẩm cung cấp chất đạm cũng như chất khoáng tốt như cua, ốc, tôm, tép nên tận dụng.

Vận động và lao động: khi mang thai, nên hoạt động nhẹ nhàng và không nên làm việc nặng quá. Nhất là trong 3 tháng đầu tránh sảy thai và những tháng cuối để tránh đẻ non. Nếu thấy tử cung hay co cứng hoặc có tiền sử sảy thai, đẻ non hoặc cơ thể yếu mệt thì nên làm việc nhẹ. Tập thể dục cần thiết cho thai phụ vì giúp cho tinh thần được sảng khoái, tuần hoàn lưu thông, thai phụ ăn được ngủ được. Nhưng phải tập đúng mức, nhẹ nhàng, thở sâu, thở đều, co duỗi chân tay. Không nên chơi các môn thể thao và điền kinh nặng.

Nghỉ ngơi: nghỉ ngơi là việc làm cần thiết cho thai phụ và thai nhi. Không nên nghỉ ngơi hoàn toàn, vì như vậy người mẹ sẽ không khỏe mạnh, đẻ khó. Trong tháng cuối trước khi đẻ, bụng to nhanh, nặng, thai phụ đi lại cũng khó khăn. Đồng thời tháng cuối cũng là tháng thai nhi tăng cân nhanh. Tốt nhất sản phụ nên nghỉ làm việc một tháng trước khi đẻ để có lợi cho cả mẹ và con. Bạn không nên đi bộ lâu. Yếu tố tinh thần rất quan trọng cho người mẹ và phát triển của thai. Gia đình hạnh phúc, người mẹ được chăm sóc chu đáo thai nhi sẽ phát triển tốt, cuộc đẻ sẽ có tiên lượng tốt và tạo sữa sau đẻ sẽ đầy đủ.

Mặc: khi có thai, khối lượng tuần hoàn và hô hấp tăng nhanh. Cho nên phải mặc sao cho không ảnh hưởng đến hoạt động của các cơ quan này. Muốn thế quần áo phải rộng rãi, thoáng mát, mùa hè mặc quần áo mỏng, mùa đông mặc quần áo đủ ấm.

Tắm rửa: nên dùng nước ấm, không tắm lâu, tắm ở nơi bị gió lùa. Không ngâm mình trong nước ao hồ dễ bị nhiễm khuẩn.

Chăm sóc vú: việc vệ sinh vú, đặc biệt là núm vú là rất quan trọng nhằm đảm bảo sự thông tia sữa sau khi đẻ. Hàng ngày nên lau rửa nhẹ nhàng khi tắm. Không cọ rửa núm vú gây kích thích co tử cung. Nếu núm vú ngắn và tụt đầu vú, chỉ kéo núm vú nhẹ nhàng khi thai đã đủ tuần thai.

Nên kiêng sinh hoạt vợ chồng trong 3 tháng đầu và 3 tháng cuối của thời kỳ thai nghén. Vì giai đoạn này rất dễ gây sẩy thai và đề non. Khi sinh hoạt vợ chồng nên dùng bao cao su để không cho tinh dịch vào cổ tử cung và âm đạo. Vì trong tinh dịch có prostaglandin cao, chất này gây cơn co và mở cổ tử cung dễ bị đẻ non.

Không nên đụng chạm, kích thích vú và đầu núm vú của thai phụ. Vì như vậy sẽ gây ra cơn co tử cung nhiều và cũng dễ gây ra đẻ non.

Sữa mẹ là chất dinh dưỡng hoàn hảo, dễ hấp thu và sử dụng có hiệu quả cao. Trẻ bú mẹ sẽ lớn nhanh. Trong sữa mẹ có nhiều kháng thề giúp trẻ chống lại các bệnh nhiễm khuẩn. Trẻ bú mẹ ít mắc các bệnh tiêu chảy, viêm phổi và các bệnh khác hơn trẻ nuôi nhân tạo.

Khi trẻ mút vú sẽ kích thích bài tiết Prolactin. Prolactin đi vào máu, đến vú và làm cho vú sản xuất sữa. Phần lớn Prolactin ở trong máu khoảng 30 phút sau bữa bú. Chính vì thế nó giúp cho vú tạo sữa cho bữa bú tiếp theo. Điều này cho thấy rằng nếu trẻ bú nhiều thì vú mẹ sẽ tạo nhiều sữa. Prolactin được sản xuất nhiều vào ban đêm là rất có ích để duy trì sự tạo sữa.

Khi trẻ mút vú sẽ kích thích bài tiết oxytoxin. Oxytoxin đi vào máu, đến vú và làm cho các tế bào cơ xung quanh nang sữa co lại đẩy sữa ra ngoài. Nếu phản xạ oxytoxin không làm việc tốt thì trẻ sẽ gặp khó khăn trong việc nhận sữa. Mặc dù vú vẫn sản xuất sữa nhưng lại không tống sữa ra. Phản xạ oxytoxin dễ dàng bị ảnh hưởng bởi ý nghĩ của bà mẹ. Khi bà mẹ có những cảm giác tốt như hài lòng với con mình, gần gũi, yêu thương con, luôn tin tưởng vào việc nuôi con bằng sữa mẹ thì sẽ hỗ trợ tốt cho phản xạ oxytoxin.

Trong sữa mẹ có một yếu tố phụ được gọi là chất ức chế tạo sữa. Khi một lượng sữa lớn đọng trong vú, chất ức chế sẽ tiết ra làm cho vú ngừng tạo sữa. Vì vậy, muốn vú tạo nhiều sữa thì phải tạo cho vú luôn rỗng bằng cách cho trẻ bú thường xuyên hoặc vắt sữa ra.

Định nghĩa NCBSM hoàn toàn

Nuôi con bằng sữa mẹ (NCBSM) hoàn toàn có nghĩa là chỉ cho trẻ bú mẹ mà không cho ăn, uống bất cứ thức ăn, đồ uống nào khác kể cả nước chín. Trừ các trường hợp phải uống bổ sung các vitamin, khoáng chất hoặc thuốc theo chỉ định của thầy thuốc.

Lợi ích đối với trẻ

  • Là nguồn dinh dưỡng hoàn hảo, đáp ứng đầy đủ nhu cầu trẻ trong 6 tháng đầu.
  • Thúc đẩy sự phát triển cơ thể trẻ.
  • Kích thích sự phát triển của não.
  • Phòng ngừa các bệnh nhiễm khuẩn, nhất là tiêu chảy và nhiễm khuẩn hô hấp
  • Dễ tiêu hóa, sử dụng hiệu quả.
  • Cung cấp đầy đủ nước cho trẻ trong 6 tháng đầu.
  • Đảm bảo dinh dưỡng nhất là trong trường hợp khẩn cấp (bão lụt, chiên tranh).
  • Sạch sẽ, luôn sẵn sàng và ở nhiệt độ phù hợp.

Lợi ích đối với bà mẹ

  • Cho trẻ bú sớm ngay sau khi sinh giúp sổ rau và tránh mất máu cho mẹ.
  • Trẻ bú mẹ kích thích co hồi tử cung tốt.
  • Cho trẻ bú ngay và thường xuyên kích thích tăng cường sản xuất sữa.
  • Cho trẻ bú ngay và thường xuyên giúp phòng cương tức sữa cho mẹ.
  • Bú mẹ có lợi ích kinh tế cao (tiết kiệm chi phí).
  • Giúp tăng cường tình cảm mẹ con.
  • Tốt cho sức khỏe của mẹ (giảm thiếu máu, phòng ung thư vú, cổ tử cung).
  • Chậm có kinh trở lại, chậm có thai.

Lợi ích xã hội

  • Giảm nguy cơ bệnh tật.
  • Giảm các chi phí y tế.

Sữa non là loại sữa mẹ đặc biệt, được tiết ra trong 3 ngày đầu sau đẻ. Sữa non sánh đặc, có màu vàng nhạt hoặc trong. Sữa non chứa nhiều đạm hơn sữa trưởng thành.

Đặc tính của sữa non

Đặc tínhTầm quan trọng
Giàu kháng thểGiúp phòng chống dị ứng và nhiễm khuẩn
Nhiều tế bào bạch cầuGiúp phòng chống nhiễm khuẩn
Có tác dụng xổ nhẹĐào thải phân su. Giảm mức độ vàng da
Nhiều yếu tố tăng trưởngGiúp cho đường ruột của trẻ tiếp tục hoàn thiện sau sinh. Phòng chống dị ứng, không dung nạp
Giàu vitamin AGiảm mức độ nặng khi bị nhiễm khuẩn

Trẻ được bú sữa non trong những bữa bú đầu tiên là rất quan trọng, đặc biệt trong vòng 1 giờ đầu sau sinh. Sữa non đã có sẵn trong vú ngay khi trẻ sinh ra. Không nên cho trẻ bất cứ thức ăn, nước uống nào trước khi trẻ bắt đầu bú mẹ.

Sau vài ngày (khoảng 3 – 4 ngày) sữa non chuyển sang sữa trưởng thành. Số lượng sữa nhiều hơn làm 2 bầu vú bà mẹ đầy, căng cứng. Người ta gọi đây là hiện tượng”xuống sữa”.

Sữa đầu bữa là sữa được tiết ra đầu bữa bú của trẻ. Nó có màu hơi xanh, số lượng nhiều và cung cấp nhiều đạm, đường, nước và các chất dinh dưỡng khác. Trẻ dưới 6 tháng tuổi chỉ cần bú mẹ là đủ. Không cần uống thêm nước, ngay cả khi thời tiết nóng. Nếu cho trẻ uống nước thì trẻ sẽ giảm bú mẹ.

Sữa cuối bữa là sữa được tiết ra cuối bữa bú của trẻ. Bầu vú mẹ lúc này đã hết căng. Sữa cuối bữa có màu trắng vì chứa nhiều chất béo hơn sữa đầu bữa. Chất béo cung cấp nhiều năng lượng cho trẻ giúp trẻ lớn nhanh hơn. Vì vậy, điều quan trọng là cần để trẻ bú đến hết sữa cuối. Không để trẻ nhả vú sớm hay mẹ chuyển bên sớm quá.

Đáp ứng nhu cầu năng lượng từ sữa mẹ

Trong 6 tháng đầu sau đẻ, sữa mẹ đáp ứng đủ nhu cầu dinh dưỡng và nước cho trẻ. Từ 6 tháng tuổi, sữa mẹ không thể đáp ứng đủ nhu cầu dinh dưỡng cho trẻ. Từ 6 – 12 tháng tuổi sữa mẹ cung cấp đủ 70% nhu cầu năng lượng. Từ 1 – 2 tuổi sữa mẹ cung cấp 30 – 40% nhu cầu năng lượng. Vì vậy, tất cả trẻ từ 6 tháng tuổi ngoài sữa mẹ đều cần được ăn bổ sung. Tuy nhiên, sữa mẹ vẫn là nguồn cung cấp các chất dinh dưỡng có chất lượng cao cho trẻ trên 6 tháng tuổi. Cần duy trì sữa mẹ tới khi có thức ăn thay thế đầy đủ.

Được chế biến từ nhiều sản phẩm khác nhau, bao gồm: sữa động vật, đậu nành và dầu thực vật. Các loại sữa này đã được điều chỉnh, chế biến để cho giống sữa mẹ. Nhưng vẫn còn thấp hơn nhiều so với nhu cầu của trẻ nhỏ.

So sánh một số loại sữa công thức

 Sữa mẹSữa bò tươiSữa đặc có đường
Nhiễm vi khuẩnKhôngCó thểCó thể khi pha
Kháng thểKhông có hoặc có ítKhông có
Yếu tố phát triển Có nhưng ít phù hợpCó nhưng rất ít phù 1 hợp
ĐạmSố lượng đủ, dễQuá nhiều, khó tiêuMột phần quá ít
Chất béoĐủ các acid béo cần thiết, có men lipase để tiêu hóa mỡ  Không đủ các acid béo cần thiết Không có men lipaseKhông đủ các acid béo cần thiết Không có men lipase
SắtSố lượng ít, hấp thu tốtSố lượng ít, hấp thu không tốtCho thêm, hấp thu không tốt
VitaminSố lượng ít, hấp thu tốtCó thể đủ vitamin A và C nhưng hấp thu kémCho thêm
NướcĐủCần thêmCần thêm
  • Bắt đầu cho trẻ bú ngay trong một giờ đầu sau khi sinh. Việc cho bú ngay sau sinh giúp trẻ được cung cấp các chất dinh dưỡng cần nhất. Giúp co hồi tử cung, tránh mất máu mẹ và giúp mẹ bài tiết sữa sớm.
  • Không nên cho trẻ ăn những thức ăn hay đồ uống khác, đặc biệt là sữa ngoài (sữa bột). Và không cho trẻ bú bình trong khi sữa chưa về. Trẻ ăn các thức ăn thay thế sữa mẹ sẽ làm mẹ giảm tiết sữa và không đủ sữa nuôi con. Có thể trẻ cũng chọn sữa công thức mà không chịu bú mẹ.
  • Nếu trẻ không bú mẹ hoặc khi sữa mới về thì bầu vú có thể căng tức sữa làm cho bà mẹ cảm thấy đau. Nếu cho trẻ bú thì bầu vú sẽ bớt căng và mẹ sẽ thấy hết đau.
  • Trong 6 tháng đầu, trẻ chỉ cần bú mẹ, không cần ăn bất ký thức ăn hay đồ uống nào khác. Tiếp tục cho trẻ bú đến khi trẻ được 24 tháng.
  • Trẻ cần được bú theo nhu cầu, thường xuyên như trẻ muốn, cả ngày lẫn đêm.
  • Số lần bú khoảng 8 – 12 lần trong 24 giờ phụ thuộc vào kích cỡ dạ dày.
  • Kích cỡ dạ dày của trẻ: trẻ mới sinh 1 – 2 ngày: 5 – 7 ml (quả nho); 3 – 4 ngày: 22 – 27 ml (quả chanh) và 10 ngày: 60 – 80 ml (quả trứng gà).
  • Trẻ càng bú nhiều, mẹ càng tiết nhiều sữa. Bú hết một bên vú rồi mới chuyển sang bên kia. Để đảm bảo trẻ được bú cả sữa đầu và sữa cuối giàu dinh dưỡng.
  • Xoay xở, không nắm yên.
  • Há miệng và quay đầu sang hai bên.
  • Đưa lưỡi ra vào.
  • Mút ngón tay hoặc mút nắm tay.

Mỗi lần bú kéo dài đến khi trẻ tự nhả vú ra. Một lần bú kéo dài hơn nửa tiếng hoặc các lần bú quá gần (chỉ cách nhau 1 – 1,5 tiếng). Đây là dấu hiệu trẻ không được ngậm bắt vú đúng và bú có hiệu quả, cần kiểm tra đánh giá lại.

Trẻ đi tiểu ít nhất 6 lần trong vòng 24 giờ thì đó là dấu hiệu của bú mẹ đủ. Trong 2 ngày đầu khi bú sữa non thì chỉ làm ướt 1 – 2 tã/ngày. Nếu số lần đi tiểu ít hơn, cần cho bú mẹ thêm hoặc kỹ thuật cho bú cần được xem xét lại có đúng hay không.

Khi trẻ bị ốm (bệnh), vẫn tiếp tục cho trẻ bú, cần cho bú thường xuyên hơn và lâu hơn.

Không nên cho trẻ bú bình. Nếu trẻ bú bình trước khi bú mẹ lần đầu thì trẻ khó có thể mút vú có hiệu quả. Thậm chí những trẻ đã bú mẹ trong vài tuần sau để rồi bú bình, đến khi bú mẹ lại vẫn có thể bú không hiệu quả.

Tư thế

Tùy điều kiện mẹ có thể cho trẻ bú ở tư thế nằm hay ngồi. Nhưng phải đảm bảo bà mẹ và trẻ đều ở tư thế thoải mái, thư giãn.

  • Đầu và thân trẻ phải nằm trên cùng một được thẳng.
  • Bụng trẻ áp sát vào bụng mẹ
  • Mặt trẻ quay vào vú mẹ và mũi trẻ đối diện với núm vú.
  • Ngoài đỡ đầu, cần phải đỡ mông trẻ nếu là trẻ sơ sinh.

Cách ngậm bắt vú đúng

  • Quầng vú ở phía trên miệng trẻ còn lại nhiều hơn quầng vú ở phía dưới.
  • Miệng trẻ mở rộng.
  • Môi dưới hướng ra ngoài.
  • Cằm trẻ chạm vào vú mẹ.

Hậu quả ngậm bắt vú sai

  • Đau hay tổn thương núm vú (có thể nứt cổ gà).
  • Cương tức vú, tắc tia sữa.
  • Trẻ đòi bú liên tục, khóc nhiều và mỗi lần bú kéo dài hoặc từ chối bú mẹ.
  • Trẻ tăng cân kém.

Vắt sữa có ích trong những trường hợp sau

  • Giảm bớt căng tóc sữa hoặc tắc ống dẫn sữa.
  • Mẹ có núm vú tụt vào trong phải vắt sữa cho trẻ ăn trong khi trẻ đang tập bú. Vắt sữa cho trẻ từ chối bú mẹ trong khi tập bú trở lại.
  • Vắt sữa cho trẻ ốm hoặc trẻ sơ sinh có cân nặng thấp, khi trẻ không thể bú được. Duy trì sự tạo sữa khi mẹ phải đi làm xa hoặc mẹ bị ốm không trẻ bú được.
  • Đề phòng núm vú bị khô nứt hoặc đau.

Kỹ thuật vắt sữa bằng tay

Rửa tay sạch.

Ngồi hoặc đứng ở tư thế thoải mái và giữ một cốc đựng sữa ở gần vú. Đặt ngón tay cái ở phía trên quầng vú và núm vú, ngón tay trỏ đặt ở phía dưới quầng vú và núm vú đối diện với ngón tay cái. Các ngón tay khác đỡ vú, ấn ngón cái và ngón trỏ một cách nhẹ nhàng về phía trong và vào thành ngực. Không nên ấn mạnh quá vì có thể làm tắc ống dẫn sữa. Ấn vào rồi bỏ ra, làm lại nhiều lần. Việc này không gây đau, nếu đau nghĩa là kỹ thuật làm sai. Xoay ngón tay vào quầng vú vùng bên cạnh đề đảm bảo rằng sữa được vắt ra từ tất cả các khoang sữa.

Tránh xoa bóp hoặc trượt các ngón tay dọc theo da. Tránh ép vào núm vú vì ấn hoặc kéo núm vú không làm cho sữa chảy ra.

Vắt mỗi bên vú tối thiểu 3 – 5 phút cho tới khi dòng sữa chảy chậm lại thì chuyển sang bên kia. Và sau đó lại vắt lại ở cả hai bên.

Muốn tạo được nhiều sữa bà mẹ cần cho con bú sớm ngay sau khi đẻ. Cho trẻ bú nhiều lần, bú đúng cách để kích thích phần xạ Prolactin và Oxytoxin.

Nên cho trẻ bú nhiều vào ban đêm cũng là một cách để tăng cường sự tạo sữa. Nếu bà mẹ phải đi làm, không có điều kiện cho con bú thường xuyên thì bà mẹ phải vắt sữa thường xuyên để kích thích vú tạo sữa. Với nguyên tắc là vú phải luôn rỗng thì mới tạo được nhiều sữa.

Thường do nguyên nhân trẻ ngậm bắt vú sai. Trẻ sẽ kéo núm vú vào và đẩy ra trong khi nó mút vú và chà sát da của núm vú lên miệng trẻ. Điều này làm cho bà mẹ rất đau. Sau nhiều lần bú kiểu này, da ở núm vú sẽ bị tổn thương gây nứt núm vú. Điều trị bằng cách cải thiện sự ngậm bắt vú tốt, triệu chứng đau sẽ giảm đi.

Cương tức vú: nguyên nhân do không cho bú sớm, không cho bú thường xuyên, ngậm bắt vú kém, hạn chế thời gian mỗi bữa bú. Phòng ngừa bằng cách cho trẻ bú sớm, bú thường xuyên và giúp trẻ ngậm bắt vú tốt.

Điều trị: nếu trẻ bú được thì phải cho trẻ bú thường xuyên, nếu trẻ không bú được thì phải vắt sữa bằng tay hoặc dùng bơm hút sữa. Trước khi cho bú dùng gạc ấm đắp lên vú. Sau khi cho bú thì dùng gạc lạnh để giảm phù nề.

Khi ống dẫn sữa bị tắc làm sữa bị ứ trệ gây ra viêm vú. Có thể viêm từ không nhiễm trùng đến viêm nhiễm trùng.

Điều trị: trước hết phải cải thiện sự lưu thông ở ống dẫn sữa sau đó tìm nguyên nhân để xử trí. Nếu sau 24 giờ các triệu chứng không giảm phải điều trị thêm bằng thuốc kháng sinh, giảm đau và nghỉ ngơi hoàn toàn.

Núm vú phẳng và bị tịt vào trong: điều trị trước đẻ thường không có giá trị. Bạn phải tin tưởng rằng trẻ bú từ vú chứ không phải từ núm vú. Bạn giúp cho trẻ ngậm vú tốt, cố gắng cho trẻ bú ở những tư thế khác nhau. Bạn làm cho núm vú dài ra bằng cách sử dụng bơm hút đầu vú ra.

Chế độ nghỉ ngơi – lao động của bà mẹ cho con bú

Trong thời gian nuôi con, bạn cần có thêm năng lượng để tạo sữa. Và có thời gian để nghỉ ngơi, lao động vừa phải. Nếu chế độ ăn của bạn quá nghèo nàn, không đủ chất dinh dưỡng. Thì bạn sẽ phải sử dụng chất dinh dưỡng dự trữ trong các mô của cơ thể để tạo sữa. Vì vậy, cần được ăn, uống nhiều hơn bình thường, không kiêng khem quá mức. Nên hạn chế ăn các thức ăn có nhiều gia vị, không uống rượu, cà phê và hút thuốc lá.

Chế độ dinh dưỡng khi cho con bú

  • Bạn nên ăn uống đầy đủ, đủ chất thì sẽ có đủ sữa và chất lượng sữa tốt cho con bú.
  • Chú ý: ăn thêm các loại thực phẩm giàu dinh dưỡng như tôm, cua, cá, trứng, sữa, thịt, đậu đỏ, lạc vừng, rau xanh và quả chín.
  • Nên ăn nhiều bữa và ăn nhiều hơn bình thường.
  • Uống nhiều nước (1,5 đến 2 lít/ngày) vì cơ thể cần nhiều nước cho sự tiết sữa.
  • Không nên ăn các loại thức ăn nhiều gia vị (ớt, tiêu, hành tỏi).
  • Chỉ dùng thuốc khi có sự hướng dẫn của cán bộ y tế.

Sau 6 tháng tránh thai tự nhiên, người phụ nữ có thể sử dụng một biện pháp tránh thai. Nhưng không nên sử dụng thuốc uống tránh thai có Estrogen. Thay vào đó có thể sử dụng thuốc có Progestogen vì không ảnh hưởng tới quá trình tạo sữa.

Nguồn: sách “Dinh dưỡng lâm sàng” Trường Đại học Y dược Thái Bình.

Bác Sĩ Hướng

1 comment on “DINH DƯỠNG CHO PHỤ NỮ MANG THAI VÀ CHO CON BÚ

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *