Dinh dưỡng điều trị rối loạn lipid máu giữ vai trò trung tâm trong dự phòng và kiểm soát các biến chứng tim mạch, song song với việc sử dụng thuốc khi cần thiết. Bài viết này trình bày khái niệm lipoprotein máu, cơ chế hình thành rối loạn lipid, mối liên quan với xơ vữa động mạch. Đồng thời phân tích chi tiết nguyên tắc xây dựng chế độ ăn: kiểm soát chất béo, tăng chất xơ, điều chỉnh năng lượng, phân bố bữa ăn và sử dụng acid béo chưa no, omega-3. Từ đó, giúp bác sĩ và người bệnh áp dụng hiệu quả trong thực hành lâm sàng.
TỔNG QUAN SINH LÝ BỆNH
Rối loạn chuyển hóa lipoprotein máu bao gồm các rối loạn thành phần trong chuyển hóa Lipoprotein:
Tăng triglycerid huyết tương (máu).
Tăng cholesterol huyết tương (máu).
Tăng LDL – cholesterol.
Giảm HDL.
Tăng tỷ lệ LDL/HDL.
Giới hạn chuẩn và giới hạn được cho là tốt với các thành phần lipoprotein
| Thành phần lipoprotein | Giới hạn chuẩn (mmol/l) | Giới hạn tốt (mmol/l) |
| Cholesterol toàn phần | 3,5 – 7,8 | < 5,2 |
| LDL – cholesterol | 2,3 – 6,1 | < 4,0 |
| HDL – cholesterol | 0,8 – 1,7 | > 1,15 |
| Triglyceride | < 2,3 |
Tuy nhiên, cũng nên xem xét sự khác nhau theo giới, tuổi: triglycerid thường ở nam giới cao hơn phụ nữ, còn HDL thì ngược lại. Cholesterol toàn phần tăng theo tuổi. Điều trị hạ cholesterol máu, điều chỉnh được các rối loạn về lipoprotein máu không những có khả năng ngăn chặn mà còn phục hồi được những tổn thương thành mạch.
Để dự phòng và điều trị các rối loạn lipoprotein máu thì chế độ ăn uống đóng vai trò quyết định.

Trong dinh dưỡng điều trị rối loạn lipid máu, bác sĩ và chuyên gia luôn nhấn mạnh rằng chế độ ăn cho người rối loạn mỡ máu là nền tảng quan trọng hơn thuốc trong giai đoạn đầu. Để thiết kế thực đơn cho người rối loạn lipid máu phù hợp, cần bám sát các nguyên tắc dinh dưỡng rối loạn lipid máu như hạn chế chất béo bão hòa, tăng chất xơ hòa tan và kiểm soát năng lượng tổng. Khi áp dụng đúng, người bệnh có thể giảm cholesterol bằng chế độ ăn một cách bền vững, từ đó cải thiện hồ sơ mỡ máu và giảm nguy cơ biến chứng tim mạch.
Lipoprotein máu
Tính chất chung của các lipid là không tan trong nước, chỉ tan trong các dung môi hữu cơ như aceton, ethe, choloroform.
Lipid máu bao gồm các acid béo tự do, triglycerid, phospholipid, cholesterol tự do, cholesterol ester hóa.
Do không tan trong nước nên các thành phần trên chỉ được vận chuyển trong máu nhờ kết hợp với protein thành các tiểu thể lipoprotein. Phần protein của các lipoprotein gọi là apolipoprotein hay apoprotein.
Lipoprotein như vậy có ba thành phần chính là triglycerid, cholesterol và apoprotein. Tỷ trọng các lipoprotein là khác nhau. Nhiều triglycerid có tỷ trọng thấp, ngược lại nhiều apoprotein có tỷ trọng cao hơn. Dựa vào đó, người ta có thể dung siêu ly tâm tách biệt các lipoprotein thành 5 loại như sau:
Chylomicron: tiểu thể chylomicron chứa 80-90% là triglycerid
VLDL (very low density lipoprotein): lipoprotein tỷ trọng rất thấp chứa 55-65% là triglycerid.
IDL (intermediary density lipoprotein): tỷ trọng trung gian giữa VLDL và LDL.
LDL (low density lipoprotein): lipoprotein tỷ trọng thấp.
HDL (high density lipoprotein): lipoprotein tỷ trọng cao.
Mặt khác các tiểu thể lipoprotein cũng có điện thế khác nhau. Dùng kỹ thuật điện di người ta có thể phân tích được các dải alpha, pre-beta và beta lipoprotein.
Phân loại có thể hình dung như sau:
Siêu ly tâm Điện di
Chylomicron Chylomicron
VLDL Beta lipoprotein
LDL Pre-beta lipoprotein
HDL Anpha-lipoprotein
Thành phần chính của Lipid máu
Hai thành phần lipid chính trong máu là cholesterol và triglycerid. Cholesterol là thành tố chủ yếu của màng tế bào và cũng là yếu tố chính để tổng hợp các nội tố như glucocorticoid, aldosteron và acid mật.
Cholesterol trong huyết thanh khi đói được vận chuyển chủ yếu là LDL-cholsterol.
Triglycerid thì đóng vai trò quan trọng trong vận chuyển năng lượng từ thức ăn vào trong tế bào và được vận chuyển chủ yếu trong các tiểu thể chylomicron và VLDL.
Chylomicron được cấu tạo ở ruột từ acid béo trong thức ăn, được hấp thu qua tĩnh mạch cửa vào gan và qua ống bạch mạch ngực vào đại tuần hoàn để chuyển thức ăn vào mô mỡ. VLDL thì tổng hợp ở gan từ kho dự trữ mỡ và cacbohydrat của gan.
VLDL cũng làm nhiệm vụ chuyển năng lượng vào tế bào. Phần còn lại thì chuyển hóa thành LDL cung cấp cholesterol cho nhu cầu tế bào. Phần LDL thừa sẽ được tập trung về gan và lượng cholesterol trong LDL sẽ giải phóng và đào thải qua mật. HDL cũng được tổng hợp ở gan và ở ruột non, làm nhiệm vụ vận chuyển ngược cholesterol từ các mô về gan. Chính vì vậy, khi tỷ lệ LDL/HDL lớn thì có nguy cơ tích tụ cholesterol ở thành mạch gây vữa xơ động mạch vì thiếu HDL, không vận chuyển được cholesterol về gan.
Các nghiên cứu về dịch tễ học cũng khẳng định về lượng LDL-cholesterol càng cao thì tỷ lệ vữa xơ động mạch càng lớn. Ngược lại, lượng HDL càng cao thì tỷ lệ vữa xơ mạch vành càng thấp. Tỷ lệ LDL/HDL lớn hơn 5 thì nguy cơ bị bệnh mạch vành càng nhiều. Do hầu hết cholesterol huyết thanh là LDL-cholesterol cho nên cholesterol toàn phần tăng cũng là một biểu hiện nguy cơ bị bệnh mạch vành.
Như vậy, chế độ ăn hạ cholesterol máu hạn chế được nguy cơ vữa xơ động mạch là một thực tế hợp lý. Tuy nhiên, cơ chế vì sao tăng LDL-cholesterol lại dẫn đến hậu quả tạo thành mảng vữa xơ và tăng HDL lại có thể ngăn ngừa hậu quả đó thì cho đến nay cũng chưa được hiểu biết đầy đủ.
Những nghiên cứu gần đây nhằm lý giải vấn đề này đã cho rằng chính quá trình oxy hóa các tiểu thể LDL là nguồn gốc gây tổn thương các thành mạch. Tác động gây tổn thương là do các gốc tự do được sản sinh trong quá trình oxy hóa đó. Sử dụng các thức ăn có nhiều chất chống oxy hóa (antioxidant) như vitamin C, Vitamin E, beta caroten, lycopen, selen cũng là một biện pháp ngăn ngừa quá trình xơ vữa động mạch.
Ngoài ra, những phát hiện mới cho thấy trong nhiều trường hợp chỉ rối loạn một thành phần đơn độc của chuyển hóa lipoprotein cũng có nguy cơ dẫn đến vữa xơ động mạch và bệnh mạch vành. Đó là:
Giảm đơn độc HDL <35mg/dl, có nguy cơ cao. Tăng Lp (a) > 30mg/dl, một kháng nguyên (antigen) lipoprotein, biến dạng của LDL cũng có nguy cơ cao.
Rối loạn lipoprotein máu trong nhiều trường hợp còn có kết hợp với yếu tố di truyền.
Quan trọng nhất là loại tăng cholesterol máu gia đình kiểu đồng hợp tử (homozygous), do khiếm khuyết bộ phận thụ thể ở bề mặt tế bào đối với LDL. LDL không chuyển hóa được nên tăng nhiều trong máu và bệnh nhân có thể bị vữa xơ động mạch từ trẻ tuổi khi có rối loạn cả hai gen, LDL có thể tăng gấp 8 lần.
Loại thứ hai là tăng triglycerid gia đình do thiếu men lipoprotein lipase. Các mô ngoại vi như cơ, mô mỡ không tiếp nhận được triglycerid từ chylomicron đưa vào và từ VLDL do đó triglycerid máu tăng cao. Bệnh thường gây viêm tụ điều dưỡng phát nhiều lần và gan to, lách to ở trẻ em. Tất nhiên ở đây chế độ ăn phải giảm triglycerid.
Rối loạn lipoprotein còn có thể gây ra bệnh mạch vành không thông qua con đường gây mảng vữa xơ. Ở nhóm bệnh nhân này, có thể kể đến các trường hợp tăng lipid máu kết hợp với tình trạng huyết khối tắc mạch. Những người ăn dầu cá sẽ ít gặp rối loạn này. Có thể dầu cá có nhiều acid béo n-3 (omega 3) tức là acid béo này có khả năng giảm tính kết dính của tiểu cầu ngăn ngừa hình thành huyết khối.
Tóm lại, rối loạn lipoprotein máu có nhiều loại. Nguy cơ chủ yếu là gây vữa xơ động mạch vành, cần phải chế ngự bằng những chế độ ăn khoa học trước khi sử dụng các thuốc hạ cholesterol trong máu.
Trong khuôn khổ dinh dưỡng điều trị rối loạn lipid máu, việc lựa chọn thực phẩm hằng ngày quyết định trực tiếp hiệu quả của chế độ ăn cho người rối loạn mỡ máu. Một thực đơn cho người rối loạn lipid máu nên ưu tiên cá biển, dầu thực vật, ngũ cốc nguyên hạt, rau xanh và trái cây tươi, đồng thời tuân thủ chặt chẽ các nguyên tắc dinh dưỡng rối loạn lipid máu được khuyến cáo trong hướng dẫn lâm sàng. Nhờ đó, bệnh nhân có thể chủ động giảm cholesterol bằng chế độ ăn thay vì lạm dụng thuốc hạ mỡ máu ngay từ đầu.
NGUYÊN TẮC CHẾ ĐỘ ĂN
Nguyên tắc chung
Chế độ ăn trong bệnh rối loạn lipid máu là chế độ giảm chất béo, có tác dụng làm giảm triglycerid máu, giảm LDL- cholesterol và tăng HDL cholesterol.
Các khuyến nghị của Hội Vữa xơ động mạch Mỹ (1) và các tác giả khác của Mỹ, Canada (2, 5) trong quản lý các rối loạn lipid máu bao gồm:
Quản lý cân nặng phù hợp, với người Việt Nam nên giữ mức BMI không vượt ngưỡng 23.
Chế độ ăn cần hạn chế các acid béo no dưới 7% tổng năng lượng, transfat dưới 1% tổng năng lượng và lượng cholesterol dưới 200 mg/ngày,
Lựa chọn nguồn protein cung cấp hàng ngày từ thịt nạc, cá nạc và protein thực vật (đậu đỗ) và các sản phẩm sữa ít béo. Không ăn da gà, vịt. Hạn chế các loại thịt giàu acid béo no và có muối. Nên ăn cá, khoảng 2-3 lần/tuần.
Chế độ ăn nhiều rau xanh và trái cây để thay thế các thực phẩm khác giàu năng lượng. Khuyến khích ăn trái cây thay vì uống nước ép,
Nên ăn các loại ngũ cốc nguyên hạt như gạo lứt, gạo lật nảy mầm, ngô, lúa mạch,…. để tăng lượng chất xơ.
Cắt giảm hạn chế các loại bánh ngọt giàu năng lượng (bánh mỳ, bánh donut.),
Hạn chế đồ uống và thực phẩm thêm đường. Loại đường bổ sung phổ biến là sucrose, glucose, fructose, maltose, dextrose, sirô ngô, nước ép trái cây, và mật ong. Đây còn là một yếu tố nguy cơ cho bệnh gan nhiễm mỡ và tiểu đường typ 2.
Sử dụng dầu thực vật đề chế biến thay thế dùng mỡ động vật,
Không hút thuốc lá, hạn chế sử dụng đồ uống có cồn,
Ăn nhạt hạn chế bằng cách lựa chọn thực phẩm, các loại nước chấm, sốt nhạt ít muối nếu có kèm thêm tăng huyết áp.
Nên tập thể dục thường xuyên, nên 60 phút/ngày. Thường xuyên vận động, giảm bớt thời gian nghỉ tại chỗ như xem tivi, lướt web, chơi máy tính .
Nguyên tắc xây dựng chế độ ăn trong dinh dưỡng điều trị rối loạn lipid máu
Muốn triển khai dinh dưỡng điều trị rối loạn lipid máu hiệu quả, người bệnh cần hiểu rõ những nhóm thực phẩm phải hạn chế trong chế độ ăn cho người rối loạn mỡ máu như nội tạng động vật, da gà, mỡ, đồ chiên rán và bánh ngọt nhiều bơ sữa. Khi xây dựng thực đơn cho người rối loạn lipid máu, bác sĩ sẽ luôn lồng ghép các nguyên tắc dinh dưỡng rối loạn lipid máu nhằm kiểm soát lượng acid béo no, trans fat và cholesterol. Cách tiếp cận này giúp người bệnh giảm cholesterol bằng chế độ ăn, tránh tiến triển xơ vữa động mạch và giảm gánh nặng điều trị lâu dài.
Để xây dựng kế hoạch dinh dưỡng điều trị rối loạn lipid máu bài bản, người bệnh nên tham khảo thông tin chính thống từ các cơ sở y khoa uy tín. Tại Việt Nam, trang https://yhocvasuckhoe.com.vn/ cung cấp nhiều nội dung về chế độ ăn cho người rối loạn mỡ máu, hướng dẫn lựa chọn thực phẩm và theo dõi chỉ số mỡ máu một cách khoa học. Song song đó, người đọc có thể đối chiếu thêm kiến thức nền trên Wikipedia, chẳng hạn bài viết về rối loạn lipid máu tại https://vi.wikipedia.org/wiki/Rối_loạn_lipid_máu để hiểu rõ hơn cơ chế bệnh sinh và vai trò của việc giảm cholesterol bằng chế độ ăn.
Trong thực hành, dinh dưỡng điều trị rối loạn lipid máu thường được cụ thể hóa thành chế độ ăn cho người rối loạn mỡ máu với 4–6 bữa nhỏ mỗi ngày, hạn chế đường đơn và đồ uống có cồn. Mỗi bệnh nhân có thể được xây dựng một thực đơn cho người rối loạn lipid máu cá thể hóa dựa trên cân nặng, mức triglycerid, LDL, HDL và bệnh kèm theo, nhưng vẫn tuân thị chặt chẽ các nguyên tắc dinh dưỡng rối loạn lipid máu về tỷ lệ P–L–G và lượng chất xơ. Cách quản lý này cho phép giảm cholesterol bằng chế độ ăn song song với tăng vận động thể lực để tối ưu hóa hiệu quả điều trị.
Đặc điểm bữa ăn và cơ cấu khẩu phần
Năng lượng: 30-35 Kcal/kg cân nặng lý tưởng/ngày
Protid: 15-18% tổng nhu cầu năng lượng. Protein có nguồn gốc động vật chiếm 30-35% tổng lượng protein.
Lipid: 18- < 25% tổng năng lượng. Tỉ lệ lipid động vật/thực vật không quá 60%.
Với tỉ lệ các chất béo: [2,4,5] .
Acid béo no không quá 10% ( dưới 7%) năng lượng.
Trans fat dưới 1% tổng năng lượng.
Acid béo no một nối đôi < 15% tổng năng lượng.
Acid béo no nhiều nối đôi từ 7-10% tổng năng lượng.
Cholesterol < 200 mg/ngày
Glucid: 60-65 % tổng nhu cầu năng lượng. Glucid phức hợp trên 70%.
Nước: 2- 3 lít/ngày.
Cung cấp đủ vitamin và chất khoáng theo nhu cầu khuyến nghị, giàu các chất chống oxy hóa.
Chất xơ: 22-25 g/ngày [2,3].
Số bữa ăn: 4 – 6 bữa/ngày.
Giáo dục bệnh nhân về dinh dưỡng điều trị rối loạn lipid máu là bước then chốt để duy trì lâu dài chế độ ăn cho người rối loạn mỡ máu, thay vì chỉ tuân thủ ngắn hạn rồi tái phát. Nhân viên y tế cần hướng dẫn rõ ràng cách lựa chọn thực phẩm và cách sắp xếp thực đơn cho người rối loạn lipid máu phù hợp với thói quen, điều kiện kinh tế và văn hóa ăn uống gia đình, nhưng vẫn đảm bảo các nguyên tắc dinh dưỡng rối loạn lipid máu theo khuyến nghị. Nhờ vậy, chiến lược giảm cholesterol bằng chế độ ăn sẽ trở thành một phần lối sống, chứ không chỉ là một “liệu trình” tạm thời.
VAI TRÒ CỦA CHẤT BÉO
Vai trò của lipid nói chung
Tiêu thụ chất béo có liên quan tới bệnh tim mạch, ung thư, đái tháo đường, béo phì, cao huyết áp, viêm xương khớp. Cả số lượng và loại chất béo ăn vào là quan trọng.
Chế độ ăn nên giảm chất béo kết hợp với giảm acid béo no và cholesterol. Nhiều nước hiện nay khuyên nên ăn chất béo 20-30% tổng năng lượng ăn vào. Ở Việt Nam, cơ cấu khẩu phần hiện nay giữa P:L:G = 15,4:17,6:67%. Sự tiêu thụ chất béo khác nhau giữa các vùng sinh thái: còn thấp ở vùng núi phía Bắc, Tây Nguyên (18%, 20%) nhưng ở Đồng bằng sông Hồng có thành phố Hà Nội (22%), Đông Nam Bộ có TPHCM đã tiêu thụ chất béo cao hơn (25% tổng năng lượng) (Theo số liệu Tổng điều tra dinh dưỡng của Viện Dinh dưỡng, 2010).
Vai trò của acid béo no:
Có mối liên quan dương tính giữa acid béo no với nồng độ cholesterol máu cũng như tỷ lệ mắc bệnh vành tim. Nhiều nghiên cứu lâm sàng cũng chi ra ràng thành phần chất béo và số lượng cholesterol của khẩu phần ăn có tác dụng tới sự thay đổi cholesterol máu.
Acid béo no có khả năng làm tăng cholesterol máu hơn là giảm acid béo chưa no có nhiều nối đôi. Acid béo no có khả năng ảnh hưởng tới giảm thành phần HDL-C nhiều nhất. Các acid béo no phải kể đến là acid myristic (C14:0); acid lauric (C12:0) và acid palmitic làm tăng cholesterol toàn phần và LDL-C.
Những bằng chứng dịch tễ học cho thấy chế độ ăn nhiều chất béo, acid béo no và cholesterol thì có liên quan với tăng yếu tố đông máu số VII và fibrinogen, những yếu tố đóng vai trò quan trọng trong hình thành cục máu đông, và được xem là yếu tố nguy cơ của vữa xơ động mạch.
Nếu giảm acid béo no thì sẽ giảm yếu tố đông máu số VII.
Vai trò của acid béo thể trans
Các acid béo thể trans (thể đồng phân xuất hiện khi hydrogen hóa các acid béo chưa no trong ống tiêu hóa gia súc hoặc quy trình công nghiệp) có nhiều trong mỡ, sữa động vật ăn cỏ cũng có vai trò quan trọng làm tăng nguy cơ của bệnh mạch vành. Tác dụng tiêu cực của các chất béo thể trans đối với chi số cholesterol/HDL cao gấp hai lần so với chất béo bão hòa.
Acid béo thể trans làm tăng cholesterol toàn phần và LDL-cholesterol và giảm HDL-cholesterol dẫn đến làm tăng tỷ số triglycerid/HDL và LDL/HDL dẫn đến làm tăng nguy cơ mắc bệnh tim mạch.
Acid béo thể trans làm tăng lipoprotein (a) là chất có liên quan với tăng yếu tố nguy cơ của xơ vữa động mạch. Như vậy, chế độ ăn thấp acid béo thể trans và acid béo no sẽ có hiệu quả làm giảm cholesterol máu.
Vai trò của acid béo chưa no
Ăn nhiều chất béo chưa no có làm giảm nguy cơ một số bệnh tim mạch. Có mối liên quan giữa mức sử dụng các acid béo no trong khẩu phần ăn với tỷ lệ tử vong và mạch vành. Sau khi nghiên cứu, các chuyên gia đều đi đến kết luận rằng chế độ ăn là yếu tố thay đổi môi trường quan trọng trong then chốt cho hiện tượng đó. Sự thay đổi hàng đầu là có sự tăng sử dụng các acid béo chưa no có nhiều nối kép (hàng đầu là acid linoleic và arachidonic) so với các acid béo no, làm tỷ lệ acid béo chưa no/acid béo no tăng lên. Cơ chế chính của tác dụng này là các acid béo chưa no có nhiều nối kép làm giảm tổng cholesterol và LDL-cholesterol, nhưng không có tác dụng rõ ràng với HDL-cholesterol.
HDL-cholesterol là yếu tố dự báo quan trọng của bệnh mạch vành hơn cả tổng số cholesterol. Những người có HDL thấp có nguy cơ cao hơn về bệnh này.
Chỉ số dự báo tốt nhất là tỷ số cholesterol toàn phần/HDL. Chất béo chưa no trong chế độ ăn có tác dụng làm tăng HDL-cholesterol. Nếu các chất béo no được thay thế bằng glucid hoặc các chất béo chưa no đều làm giảm tổng số cholesterol. Tuy vậy, glucid làm giảm HDL trong khi đó thì các chất béo chưa no không có tác dụng như vậy. Do đó khi thay thế các acid béo no bằng glucid thì không có ảnh hưởng đáng kể đến tỷ số cholesterol toàn phần/HDL. Như vậy, các lời khuyên giảm tổng số chất béo thay bằng carbohydrate là không có căn cứ và có thể có hại. Các acid béo chưa no có một mạch kép tốt hơn các acid béo no nhưng kém tác dụng hơn các acid béo chưa no có nhiều nối kép đối với hệ tim mạch.
Acid béo chưa no, một nối đôi
Acid béo chưa no có một nối đôi có thể sử dụng linh hoạt trong khi xây dựng chế độ ăn vì chúng có thể dùng thay thế acid béo no, glucid hoặc cung cấp năng lượng thay cho cả hai.
Hiện tại, acid béo chưa no có một nối đôi được quan tâm nhiều vì khi chế độ ăn có nhiều acid béo chưa no có một nối đôi (có nghĩa là thấp acid béo no và cholesterol) sẽ dẫn đến giảm cholesterol toàn phần, LDL-cholesterol, triglycerid và hạn chế tới mức thấp nhất sự giảm HDL-cholesterol.
Acid béo chưa no có nhiều nối đôi omega 3, acid béo omega-6
Những thí nghiệm lâm sàng đánh giá hiệu quả của chế độ ăn ít acid béo no, nhiều acid béo chưa no có nhiều nối đôi (7% năng lượng) tới tỷ lệ mắc xơ vữa động mạch đã cho thấy hiệu quả giảm cholesterol của acid béo không no có nhiều nối đôi. Những nghiên cứu bổ sung viên dầu cá giàu acid béo omega 3 cho thấy giảm có ý nghĩa hàm lượng máucholesterol máu (giảm 20-30% cholesterol so với lúc ban đầu (9).
Điều quan trọng là giảm cholesterol liên quan với giảm tỷ lệ mắc bệnh vữa xơ
động mạch (giảm 16-34%).
Một số nghiên cứu đã khuyến nghị nếu một khẩu phần ăn có 30% năng lượng khẩu phần từ chất béo thì acid béo chưa no có nhiều nối đôi nên <10% năng lượng khẩu phần; một số khác lại cho rằng không nên quá 7% tổng năng lượng khẩu phần.
Acid béo omega-3
Trong những năm gần đây, đã có nhiều công trình nghiên cứu và chứng minh về vai trò tích cực của các loại acid béo omega-3 (n-3) đối với phòng chống các bệnh tim mạch. Các loại cá, dầu cá chứa nhiều acid béo này như eicosapentaenoic (EPA) và docosahexaenoic (DHA). Các loại thực vật nổi ở biển và sông hồ tổng hợp các acid beo này và chúng là nguồn thức ăn cho cá, hải sản và động vật có vú ở biển. Trong những năm 50, người ta đã biết vai trò giảm cholesterol của acid béo chưa no n-6-linoleic có nhiều trong dầu thực vật và bấy giờ người ta cũng nhận thấy ở dầu cá cũng có tác dụng giảm cholesterol tương tự.
Các quan sát trên thực địa cho thấy ở các bộ tộc Eskimo tỷ lệ mắc bệnh mạch vành thấp hơn so với người Đan Mạch nhờ chế độ ăn của họ có nhiều cá biển, hơn. Các nghiên cứu cho thấy các acid béo omega-3 không những giảm cholesterol mà còn giảm cả triglycerid ở những người có triglycerid cao. Các acid béo omega-3 còn có tác dụng tốt để phòng chứng loạn nhịp tim, rung tâm thất, huyết khối và điều chỉnh phần nào huyết áp trong tăng huyết áp thể nhẹ.
Các acid béo omega-3 nguồn gốc thực vật (acid alpha linolenic – ALA) cũng có tác dụng tốt đối với bệnh tim mạch. Ở chế độ ăn giàu ALA, nguy cơ tử vong do bệnh mạch vành giảm tới 50%. Từ các quan sát trên người ta cho rằng chế độ ăn hàng ngày cần tăng các acid béo n-3 để phòng các bệnh tim mạch, cụ thể là mỗi tuần nên có 2-3 lần ăn cá, thay thế cá cho thịt, giảm tiêu thụ thịt. Tất cả các loại cá và hải sản đều chứa các acid béo n-3, ngay cả khi lượng lipid thấp trong một số hải sản.

Đối với những người không thích ăn cá và hải sản có thể sử dụng dầu cá mỗi ngày 2-3g.
Bổ sung dầu cá có tác dụng làm giảm có ý nghĩa triglycerid máu trên cả những
đối tượng có triglycerid bình thường và cao triglycerid (≥ 2 mmol/L).
Việc bổ sung khoảng 9-13g dầu cá thiên nhiên /ngày (tương ứng với 1,7-7g acid béo omega-3/ngày) thì sẽ giảm 20-25% triglycerid ở người có lượng triglycerid bình thường và giảm 26-33% triglycerid ở người có tăng triglycerid.
Hàm lượng các acid omega 3 trong một số loại cá và hải sản
| Cá tươi (100g ăn được) | Lipid (g) | Acid béo n-3 (EPA+ DHA) |
| Cá chép | 5,6 | 0,3 |
| Cá trích | 13,9 | 1,7 |
| Cá thu | 13,9 | 2,5 |
| Cá nhám | 1,9 | 0,5 |
| Cá hồi | 5,4 | 1,2 |
| Cua | 0,8 | 0,3 |
| Tôm | 0,3 | |
| Mực | 1,0 | 0,2 |
Như vậy bổ sung dầu cá có thể là một giải pháp điều trị tốt cho những người bị
triglycerid máu cao.
Theo dõi và tối ưu hiệu quả dinh dưỡng điều trị rối loạn lipid máu trong thực hành
Tóm lại:
Người ta thấy thành phần chính trong chế độ ăn có ảnh hưởng đến hàm lượng cholesterol huyết thanh là các acid béo no. Nghiên cứu của Keys cho thấy mức cholesterol huyết thanh liên quan với tổng số chất béo mà liên quan chặt chẽ với lượng các acid béo no.
Qua 10 năm theo dõi, nhận thấy tỷ lệ tử vong do bệnh mạch vành tăng lên một cách có ý nghĩa theo mức tăng của các acid béo no trong khẩu phần. Người ta nhận thấy các acid béo no làm tăng các lipoprotein có tỷ trọng thấp (low density lipoprotein – LDL) vận chuyển cholesterol từ máu đến các tổ chức và có thể tích lũy ở thành mạch. Ngược lại, các acid béo chưa no làm tăng các lipoprotein có tỷ trọng cao (high density lipoprotein – HDL) vận chuyển cholesterol từ các mô đến gan để thoái hóa. Do đó, một chế độ ăn giảm chất béo động vật (bơ, mỡ), tăng đầu thực vật, bớt ăn thịt, tăng ăn cá và các chế phẩm đậu nành có tác dụng phòng và điều trị cholesterol máu cao.
Để hiểu sâu hơn về cơ chế hình thành rối loạn mỡ máu và mối liên hệ với bệnh lý tim mạch, người đọc có thể tham khảo thêm bài viết trên Wikipedia về rối loạn lipid máu tại: https://vi.wikipedia.org/wiki/Rối_loạn_lipid_máu. Thông tin này giúp củng cố kiến thức nền tảng, đồng thời hỗ trợ xây dựng chiến lược dinh dưỡng điều trị rối loạn lipid máu một cách khoa học và bền vững trong thực tế.
Đọc thêm:











































