Điều trị tiêu chảy: Khi nào cần đến cơ sở y tế?
Nhiều loại thuốc được bán để điều trị tiêu chảy cấp như những chất làm giảm nhu động ruột (Loperamid, Codein, Opium) các chất hấp thụ (than hoạt, Caolin, Actapulgite). Các thuốc chống nôn bao gồm cả Phenergan và Chlopromazine. Tuy nhiên, những loại thuốc này không những không hỗ trợ điều trị tiêu chảy hiệu quả mà còn tiềm ẩn nguy cơ gây hại, đặc biệt với trẻ em dưới 5 tuổi.
Kháng sinh chỉ có lợi cho kiết lỵ hoặc nghị bị tả. Việc dùng thuốc cầm tiêu chảy, thuốc chống nôn, kháng sinh và các thuốc diệt đơn bào thường gây chậm trễ việc bù dịch bằng đường uống.
Nhận biết dấu hiệu cần đưa trẻ đến cơ sở y tế để điều trị tiêu chảy
Bạn cần biết theo dõi tiêu chảy, mất nước đang nặng thêm hoặc những vấn đề nghiêm trọng khác để đưa đến cơ sở y tế kịp thời. Các dấu hiệu cho biết tiêu chảy đang nặng hoặc mất nước đang tiến triển mà bạn có thể nhận ra là:
- Đi ngoài nhiều, phân toé nước.
- Nôn liên tục.
- Khát tăng lên.
- Ăn uống kém hơn bình thường.
Nếu điều trị tiêu chảy tại nhà sau 3 ngày không cải thiện, hoặc xuất hiện các dấu hiệu như sốt, phân có máu, cần đưa đến cơ sở y tế ngay.
Điều trị tiêu chảy mất nước
Mất nước xảy ra khi cơ thể mất nhiều dịch và chất điện giải do tiêu chảy. Có 3 mức độ mất nước:
Nặng (>10%): Nguy hiểm, cần can thiệp y tế khẩn cấp.
Nhẹ (<5% trọng lượng cơ thể): Có thể điều trị tiêu chảy tại nhà.
Trung bình (5-10%): Cần bù nước tại cơ sở y tế.
Các loại mất nước nhẹ, trung bình và nặng đều cần được điều trị tại các cơ sở y tế.
Điều trị tiêu chảy cho bệnh nhân mất nước nhẹ và trung bình
Bạn cần phải được bù dịch ngay lập tức bằng đường uống.
Ước tính số lượng dịch ORS để bù nước trong 4 giờ đầu:
Lượng dung dịch ORS cho uống trong 4 giờ đầu | ||||||
Tuổi | Dưới 4 tháng | 4 – 11th | 12 – 23th | 2 – 4 tuổi | 5 – 14 tuổi | 15 tuổi |
Cân nặng | Dưới 5kg | 5 – 7,9kg | 8 – 10,9kg | 11 – 15,9kg | 16 – 29,9kg | ≥ 30kg |
Lượng dịch (ml) | 200 – 400 | 400 – 600 | 600 – 800 | 800 – 1200 | 1200 – 2200 | 2200 – 4000 |
Số lượng dịch cần phải bù cho trẻ em tiêu chảy phụ thuộc cân nặng hoặc tuổi (nếu không cân được) của trẻ. Ngoài ra còn dựa vào tình trạng khát của bệnh nhân và các dấu hiệu mất nước khác. Vì vậy nếu trẻ còn muốn uống vẫn cho uống.
Tiếp tục cho bú mẹ và cho các dịch khác theo nhu cầu.
Kiểm tra lại việc điều trị và định kỳ đánh giá lại bệnh nhân cho đến khi trẻ được bù lại đủ lượng nước cần thiết.
Phát hiện những bệnh nhân không thể điều trị được bằng ORS để chọn phương pháp thích hợp hơn.
Điều trị bệnh nhân mất nước nặng
Có thể chết nhanh chóng do sốc giảm khối lượng tuần hoàn. Vì vậy cần phải được điều trị ngay bằng bù dịch theo nhiều đường.
Bù dịch bằng đường tĩnh mạch
Là cách nhanh nhất và hiệu quả nhất trong điều trị tiêu chảy mất nước nặng.
- Trẻ lớn: Truyền 30 ml/kg trong 30 phút, sau đó 70 ml/kg trong 2,5 giờ.
- Truyền Ringer Lactac hoặc NaCl 0,9% nếu không có Ringer.
- Trẻ nhỏ: Truyền 30 ml/kg trong giờ đầu, sau đó 70 ml/kg trong 5 giờ.
Bù dịch bằng ống thông dạ dày
Trong trường hợp không truyền tĩnh mạch được thì có thể đưa dung dịch ORS vào bằng ống thông dạ dày. Tuy nhiên cách này không tốt bằng truyền dịch tĩnh mạch vì không thể đưa dịch vào nhanh như truyền tĩnh mạch. Số lượng dịch tối đa có thể đưa vào qua ống thông dạ dày là khoảng 20 ml/kg/giờ, đưa vào với tốc độ nhanh hơn sẽ gây chướng bụng và nôn nhiều lần.
Trong khi bù dịch bằng ống thông cần đặt đầu bệnh nhân hơi cao để hạn chế nguy hiểm do dịch trào ngược vào phổi. Cứ 1 – 2 giờ cần đánh giá lại bệnh nhân cho đến khi quan sát thấy có đáp ứng tốt với điều trị. Nếu tình trạng bệnh nhân vẫn xấu đi sau 3 giờ bù dịch bằng ống thông dạ dày thì cần chuyển ngay bệnh nhân tới cơ sở y tế, nơi có thể truyền dịch tĩnh mạch được.
Bù dịch bằng đường uống
Nếu không thể hoặc chưa truyền được dịch tĩnh mạch hay chưa dùng được ống thông dạ dày. Và bệnh nhân có thể uống được thì phải cho uống dung dịch ORS khoảng 20 ml/kg/giờ. Cách này có một số nhược điểm giồng như bù dịch bằng ống thông dạ dày. Hơn nữa không thể dùng được cho bệnh nhân quá li bì hoặc hôn mê. Trẻ dưới 2 tuổi cho uống dung dịch ORS 1 thìa/phút, trẻ lớn hơn và người lớn cho uống bằng cốc. Những bệnh nhân có chướng bụng thì không nên cho uống dung dịch ORS hoặc đưa dung dịch vào bằng ống thông dạ dày.
Cuối giai đoạn bù nước cần đánh giá lại tình trạng mất nước của bệnh nhân. Nếu những dấu hiệu mất nước nặng còn thì tiếp tục điều trị như trên. Nếu hết dấu hiệu mất nước nặng thì bù nước theo đường uống. Cho bệnh nhân uống dung dịch ORS, cho ăn và cho uống nước lọc. Đối với trẻ còn bú thì cần tiếp tục cho bú sữa mẹ ngay khi trẻ có thể bú được. Ngoài ra cần theo dõi ít nhất 6 giờ sau khi bù dịch trước khi cho về nhà để bảo đảm người mẹ có thể điều trị duy trì bằng ORS.
Điều trị bệnh nhân nghi tả
Trẻ trên hai tuổi và người lớn bị mất nước nặng do tiêu chảy tóe nước sống trong vùng có tả cần được điều trị kháng sinh thích hợp sau khi đỡ nôn. Kháng sinh thường dùng là Tetraciclin hoặc Doxycyclin hoặc Trimethoprim – sulfamethoxazole. Nếu vi khuẩn tả trong vùng kháng Tetraxyclin thì có thể dùng Furazolin hoặc Chloramphenicol. Điều trị tả bằng kháng sinh thích hợp sẽ làm giảm thời gian tiêu chảy.
Điều trị bệnh nhân có hội chứng lỵ trực khuẩn
Khi bệnh nhân có sốt và phân có nhầy máu. Việc điều trị sớm bằng kháng sinh thích hợp sẽ làm giảm thời gian bị bệnh, giảm nguy cơ các biến chứng nặng và tử vong. Tuy nhiên, việc điều trị chỉ có kết quả khi Shigella nhạy cảm với kháng sinh điều trị. Nếu điều trị muộn hoặc kháng sinh dùng không nhạy cảm với chủng Shigella. Vi khuẩn có thể gây tổn thương lan rộng ở ruột vào máu gây ra nhiễm khuẩn huyết, suy kiệt và đôi khi gây sốc nhiễm khuẩn.
Các đặc tính chủ yếu để một kháng sinh có thể được xem xét là lý tưởng trong điều trị lỵ trực khuẩn là:
Giá thuốc không đắt quá, phù hợp với thu nhập của người dân nơi thuốc được sử dụng.
Có dạng thuốc uống.
Phần lớn các chủng Shigella phân lập được tại vùng địa dư đó nhạy cảm với kháng sinh sử dụng.
Dùng được cho trẻ em với độ an toàn cao, ít tác dụng phụ.
Đã được xác định hiệu quả tác dụng của thuốc qua các thử nghiệm lâm sàng.
Do có độc tính cao nên các Fluoroquinolone chỉ được sử dụng trong lỵ trực khuẩn ở người lớn. Ở trẻ em, acid Nalidixic là thuốc được lựa chọn để điều trị ở vùng có kháng thuốc. Ngoài ra, các vi khuẩn khác như C. Jejuni và Salmolella có thể gây nên lỵ nhưng bệnh thường nhẹ và tự khỏi.
Điều trị bệnh nhân có hội chứng lỵ amip
Thường ít gặp ở trẻ nhỏ. Vì vậy, chỉ nên điều trị như lỵ amip khi trẻ bị lỵ nhưng không có sốt, điều trị bằng kháng sinh được biết là có sự nhạy cảm với Shigella nhưng không đỡ. Hoặc tìm thấy ký sinh trùng E.Histoltica thể Magna trong phân. Thuốc được lựa chọn để điều trị lỵ amip là Metronidazole. Nếu đúng là lỵ amip thường có biến chuyển rõ rệt trong 2 – 3 ngày điều trị. Ngoài việc sử dụng kháng sinh vẫn phải chú trọng đến vấn đề bù nước và điện giải. Có chế độ nuôi dưỡng tốt để ngăn ngừa hoặc giảm tới mức tối thiểu sự tổn hại về mặt dinh dưỡng.
Ngoài ra, tiêu chảy còn có thể phối hợp với một số bệnh khác như sởi, viêm phổi, thiếu vitamin A. Cho nên cần phải điều trị kết hợp các bệnh kèm theo.
Bác Sĩ Hướng