Vai trò Vitamin D rất quan trọng trong việc phát triển khung xương và răng của trẻ sơ sinh. Nó tham gia vào quá trình hấp thu canxi, photpho ở ruột và thận. Đồng thời điều hòa việc tổng hợp và bài tiết nội tiết tố quan trọng.
Sữa mẹ và các loại sữa khác đều không cung cấp đủ nhu cầu vitamin D cho bé sơ sinh. Bé sơ sinh nếu không được cung cấp đủ vitamin D sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển của xương. Do chất xương và sụn không được vôi hóa đầy đủ. Sụn phát triển không bình thường, làm xương biến dạng, chậm lớn và có sức đề kháng yếu.
Trong 5 loại vitamin D thì D2 và D3 được đánh giá là quan trọng nhất đối với con người. Vitamin D được hấp thu từ ánh nắng mặt trời, thức ăn và các loại thực phẩm bổ sung. Đây là một trong những chất bổ sung vô cùng cần thiết cho con người.

Cơ chế và Dược động học
Vitamin D là một tiền hormone điều khiển sự hấp thu canxi ở ruột non. Nó thu được từ ánh nắng mặt trời, thức ăn và các chất bổ sung.
Trong gan, hydroxyl hóa đầu tiên chuyển đổi vitamin D thành 25-hydroxyvitamin D (25 (OH)D3). Hình thức này còn được gọi là Calcidiol có chu kỳ bán hủy khoảng 3 tuần.
Hydroxyl thứ hai diễn ra chủ yếu ở thận. Tạo thành 1,25-dihydroxyvitamin D (1,25-(OH)2D3) được gọi là Calcitriol có thời gian bán thải 4-6 giờ. Vitamin D có trách nhiệm quy định các canxi và phosphate homeostasis. Nó duy trì nồng độ các khoáng chất bằng cách tăng cường hiệu quả hấp thu của ruột non.
Khi hấp thu Canxi không đủ, các tế bào gốc tủy xương trở thành hủy cốt bào trưởng thành. Đổi lại, các hủy cốt bào huy động canxi từ xương để duy trì nồng độ canxi trong máu.
Thức ăn chứa vitamin D được hấp thu tốt từ ruột non, chủ yếu ở tá tràng và hỗng tràng. Nó được thải trừ chủ yếu qua mật và một lượng nhỏ được tái hấp thu ở ruột non.
Viện Y học (IOM) cho thấy rằng nồng độ 25(OH)D3 trong huyết thanh < 30 nmol/l là thiếu hụt. Nồng độ từ 30-50 nmol/l chỉ ra một nguy cơ tiềm ẩn của thiếu vitamin D. Đối với hầu hết mọi người nồng độ ≥ 50 nmol/l là đủ vitamin D. Ngược lại, nồng độ > 125 nmol/l có thể liên quan với tác dụng phụ, chủ yếu là tăng calci huyết.
Hầu hết mọi người có được một lượng vitamin D nhờ tiếp xúc với ánh sáng mặt trời hàng ngày. Lượng này có thể bị ảnh hưởng bởi khí hậu và các yếu tố môi trường khác.
Mỗi lần bạn xem Q.C là một lần bạn tri ân tác giả!
Vai trò của Vitamin D
Vitamin D không phải là một “sinh tố” bình thường mà thực chất là một loại hormone hay kích thích tố. Nó thường được sản xuất chủ yếu qua việc tiếp xúc với ánh nắng mặt trời. Khi đó, da tiếp xúc với tia tử ngoại, một lượng cholecalciferol được sản sinh dưới da. Các tế bào mỡ vận chuyển cholecalciferol vào hệ thống tuần hoàn và trải qua 2 giai đoạn chuyển hóa.
Cholecalciferol trải qua một qui trình chuyển hóa và sản sinh ra 25-hydroxyvitamin D, viết tắt là 25(OH)D3. Trong giai đoạn hai, 25(OH)D3 được vận chuyển đến thận và chuyển hóa thành 1,25-hydroxyvitamin D (thường viết tắt là 1,25(OH)2D3).
Vitamin D được biết đến như một hoạt chất có ảnh hưởng đến sự phát triển và duy trì xương. Cơ chế chuyển hóa và hoạt động của vitamin D rất phức tạp. Nó có chức năng kích thích sự hấp thu canxi ở ruột, quá trình khoáng hóa để hình thành xương. Các hormone đều hoạt động qua thụ thể và thụ thể vitamin D có mặt ở hầu hết trong các tế bào.
Thiếu hụt vitamin D làm tăng nguy cơ mắc các bệnh liên quan. Tăng nguy cơ mắc bệnh ung thư, loãng xương, tim mạch, cao huyết áp, tai biến mạch máu não, đái tháo đường, vẩy nến, viêm đường ruột, viêm khớp, viêm gan, nhiễm trùng, lao phổi…
Người thiếu vitamin D thường hay bị đau nhức cơ bắp, té ngã và dễ gãy xương. Những phụ nữ mang thai, thiếu vitamin D làm tăng nguy cơ chấn thương não, dị tật ở trẻ sơ sinh.
Các nghiên cứu lâm sàng
Nhiều nghiên cứu cho thấy cư dân sống ở các vùng vĩ tuyến cao thường mắc bệnh cao huyết áp. Khi bệnh nhân được phơi nắng thì hàm lượng vitamin D tăng 180% và huyết áp giảm khoảng 6 mmHg. Ngoài ra, bệnh nhân phơi nắng còn có tác dụng giảm LDL và tăng HDL cholesterol.
Một nghiên cứu trên 13.000 người Mĩ trên 20 tuổi cho thấy. Những người có nồng độ vitamin D thấp có nguy cơ tử vong tăng 26% so với những người có nồng độ bình thường. Bổ sung vitamin D với liều lượng 300 – 2.000IU/ngày giảm nguy cơ tử vong 7% sau 3 năm theo dõi.
Một thực tế đáng quan ngại hiện nay là có quá nhiều người trong cộng đồng thiếu vitamin D. Đây có thể là một trong những yếu tố gây nên những bệnh tật mãn tính hiện nay.
Phụ nữ được bổ sung vitamin D và canxi giảm nguy cơ mắc bệnh ung thư gần 80%. Nồng độ vitamin D trong máu càng cao, nguy cơ mắc bệnh ung thư càng thấp và ngược lại. Điều này có ý nghĩa rất lớn trong việc phòng chống ung thư và bệnh tật ở cộng đồng. Bởi vì, bổ sung vitamin D tương đối rẻ tiền và không gây ra những ảnh hưởng phụ nguy hiểm.
Các nghiên cứu gần đây còn cho thấy vitamin D đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao hệ thống miễn nhiễm.
Bệnh nhân lao, khi được bổ sung vitamin D với liều lượng 10.000IU/ngày sau 6 tuần. Họ không có bất cứ triệu chứng đờm trong phổi và ngược lại.
Những người có nồng độ vitamin D cao thì nguy cơ bị nhiễm cúm và viêm phổi thấp hơn nhiều
Vì vitamin D được sản xuất từ ánh nắng mặt trời. Người ta thường lầm tưởng rằng ở những nước nhiệt đới sẽ không bị thiếu. Sự thật là ngược lại, một tỉ lệ lớn dân số trên thế giới, kể cả các nước nhiệt đới vẫn thiếu vitamin D. Theo ước tính, 40-50% dân số trên thế giới thiếu vitamin D. Nghiên cứu ở Thái Lan và Mã Lai cho thấy cứ 100 người thì có 50 người thiếu. Riêng ở Nhật và Hàn Quốc, tỉ lệ thiếu vitamin D lên đến 80-90%. Vì nó liên quan đến việc bạn có tiếp xúc với ánh nắng hay không?
Ở nước ta, các bệnh truyền nhiễm vẫn còn là một trong những nguyên nhân tử vong hàng đầu. Các bệnh liên quan đến “xã hội hiện đại” như tim mạch, tai biến mạch máu não, ung thư, viêm khớp, loãng xương, đái tháo đường… càng ngày càng tăng. Tất cả các bệnh này đều liên quan đến vitamin D. Thật ra, hầu như không một bệnh mãn tính nào mà không có liên hệ với nó. Trong một hội nghị về vitamin D diễn ra ở Mĩ, một chuyên gia hàng đầu cho rằng y học thế giới đang ở một “kỉ nguyên vitamin D”.
Vitamin D và bệnh còi xương
Còi xương là bệnh loạn dưỡng xương do thiếu vitamin D hay rối loạn chuyển hóa vitamin D dẫn đến mềm xương và dễ gãy.
Bệnh còi xương dinh dưỡng, thường gặp ở trẻ 4 – 18 tháng tuổi do hệ xương đang phát triển mạnh.
Bệnh còi xương do thiếu vitamin D gọi là còi xương dinh dưỡng là bệnh phổ biến ở trẻ em nhất là ở các nước đang phát triển. Trên thế giới có 40 – 50% dân số thiếu viatmin D.
Bệnh còi xương dinh dưỡng ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển thể chất của trẻ, làm tăng tần suất mắc các bệnh nhiễm khuẩn đặc biệt là nhiễm khuẩn đường hô hấp.
Mỗi lần bạn xem Q.C là một lần bạn tri ân tác giả!
Vitamin D và viêm khớp dạng thấp
Thiếu Vitamin D là nền tảng phổ biến trong bệnh viêm khớp dạng thấp (RA). Thiếu hụt nó đã được phát hiện trong 76,3% bệnh nhân RA và ở 78,6% bệnh nhân viêm xương khớp.
Nó là một tiền chất steroid hormone. Sự thiếu hụt này làm tăng nguy cơ các bệnh tự miễn dịch và ảnh hưởng tiêu cực đến vận động. Và nó còn liên quan tới đau mãn tính, suy nhược cơ xương, rối loạn tâm trạng và suy giảm nhận thức chức năng ở người cao tuổi. Bệnh nhân có triệu chứng bệnh vừa, có nồng độ vitamin D huyết thanh thấp hơn so với những bệnh nhân có các triệu chứng bệnh nhẹ và thấp nhất ở những bệnh nhân có các triệu chứng bệnh nặng.
Vitamin D và đau thần kinh ngoại biên trong bệnh tiểu đường
Các nghiên cứu đã chỉ ra vai trò của vitamin D trong cơ chế bệnh sinh của đau thần kinh ngoại biên trong bệnh tiểu đường. Do đó vai trò tiềm năng của việc bổ sung nó trong điều trị biến chứng bệnh tiểu đường.
Những bệnh nhân tiểu đường có nồng độ vitamin D thấp. Đồng thời cũng có triệu chứng đau đớn thần kinh ngoại biên nhiều hơn. Kèm theo ảnh hưởng của thời gian tiếp xúc ánh nắng.
Các bệnh nhân mắc bệnh tiểu đường có đau thần kinh ngoại vi thì có hơn 90% bệnh nhân bị thiếu hụt vitamin D.
Vitamin D và đau mạn tính
Nhiều nghiên cứu đã tìm thấy sự gia tăng cơn đau mãn tính khi nồng độ vitamin D trong huyết thanh < 20 ng/ml. Cùng với tăng tần suất các cơn đau cơ xương mãn tính và không đặc hiệu. Các bệnh nhân còn thấy chất lượng của cuộc sống kém hơn. Mối tương quan giữa nồng độ vitamin D trong huyết thanh và cơn đau đã được nghiên cứu trong các loại đau. Bao gồm đau mãn tính, đau cơ xương khớp, viêm khớp dạng thấp, đau béo phì và nhức đầu. Cơ chế của vitamin D trong các triệu chứng đau phụ thuộc rất nhiều vào loại đau.
Vitamin D đóng góp vào việc phát hành các cytokine gây viêm trong viêm khớp dạng thấp, đau cơ xương. Và có thể làm giảm sự nhạy cảm của các sợi thần kinh trong cơ bắp.
Những bệnh nhân có nồng độ vitamin D thấp có tỉ lệ đau cao hơn cả xâm nhập và mãn tính. Tỷ lệ mắc chứng đau mạn tính có ý nghĩa ở những bệnh nhân có nồng độ vitamin D thấp.
Bệnh nhân dùng liều cao vitamin D (400.000 – 600.000IU) dựa trên mức độ nghiêm trọng của sự thiếu hụt vitamin D. Đau được đánh giá lúc ban đầu và sau can thiệp. Vào tuần thứ 2, điểm số đau trung bình của bệnh nhân giảm từ 5,1 xuống 2,8. Và tỷ lệ bệnh nhân tự báo cáo sử dụng thuốc giảm đau đã giảm từ 20% xuống còn 12,2%.
Từ 50-80% bệnh nhân tại các cơ sở y tế của Mỹ đều thiếu vitamin D. Mặc dù nhiều loại thực phẩm và đồ uống được bổ sung. Số lượng thường là không đủ đối với nồng độ huyết thanh bình thường. Sự điều chỉnh nồng độ vitamin D có thể làm giảm đau của nhiều nguồn gốc. Bổ sung vitamin D ở những bệnh nhân có nồng độ thấp trong huyết thanh có thể là một cách dễ dàng và an toàn để giảm sự xuất hiện cơn đau.
Mỗi lần bạn xem Q.C là một lần bạn tri ân tác giả!
Vitamin D và các vấn đề sức khỏe tâm thần
Thiếu vitamin D ở các giai đoạn phát triển khác nhau bao gồm cả trong tử cung có liên quan đến rối loạn tâm thần. Không có sự liên quan giữa nồng độ chất này và thời gian bị bệnh hoặc chức năng. Tuy nhiên, những người này có chất lượng cuộc sống thấp hơn và mức độ trầm cảm cao hơn.
Nồng độ thấp ở những người có rối loạn tâm thần thì tỉ lệ nghịch với các vấn đề sức khỏe khác. Bao gồm cả chỉ số khối, nồng độ chất béo, tổng mức cholesterol, béo phì và tăng huyết áp. Ngoài ra, nồng độ thấp hơn ở những bệnh nhân ít tập thể dục và ít tiếp xúc với ánh nắng. Mặc dù, những người bị rối loạn tâm thần ít có khả năng tham gia các hoạt động ngoài trời. Vì vậy, cần được bổ sung để giúp đỡ sự hồi phục ở bệnh nhân bị rối loạn tâm thần.
Thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên đã sử dụng vitamin D bổ sung ở những người có bệnh Parkinson. Kết quả cho thấy nồng độ chất này cao có thể làm chậm tiến triển của run tay chân.
Nồng độ vitamin D thấp có liên quan với các triệu chứng lâm sàng của bệnh nhân mắc trầm cảm. Làm một loạt đánh giá những phụ nữ khỏe mạnh trong khoảng thời gian 1 tháng. Các nhà điều tra cho thấy hơn 1/3 số người có triệu chứng trầm cảm và gần 1/2 có thiếu hụt vitamin D. Kiểm tra D3 và C huyết thanh lúc ban đầu và ở cuối giai đoạn nghiên cứu. Giữa 34% và 41% người tham gia có triệu chứng trầm cảm lâm sàng đáng kể. Vitamin D3 < 30ng/ml được ghi nhận ở 42% và 46% số người tham gia trước và sau nghiên cứu.
Vitamin D và Testosterone
Mức vitamin D thấp thường kết hợp với mức testosterone thấp ở nam giới khỏe mạnh trung niên. Thiếu hụt vitamin D đã được định nghĩa là mức độ 25-hydroxyvitamin D < 30ng/l. Lượng testosterone cao hơn ở nam giới có mức 25-hydroxyvitamin D bình thường và ngược lại.
Ngay cả khi điều chỉnh các nguy cơ khác trong 10 năm. Các đối tượng có thiếu hụt vitamin D vẫn có lượng testosterone thấp hơn so với những người bình thường.
Khi nồng độ 25-hydroxyvitamin D thấp thì chỉ số khối cơ thể cao hơn khi mức bình thường. Chu vi vòng eo lớn hơn và tổng lượng lipid ít thuận lợi hơn.
Trong nghiên cứu gần đây, những người đàn ông khỏe mạnh với nồng độ 25-hydroxyvitamin D và testosterone thấp. Đã có sự gia tăng đáng kể tổng mức testosterone sau 12 tháng dùng 3.000IU vitamin D mỗi ngày.
Ngoài tác động của nó trên xương, sức khỏe cơ bắp và làn da. Nó cũng điều khiển một loạt các chức năng hệ thống miễn dịch bao gồm cả các peptide kháng khuẩn.
Nghiên cứu lâm sàng đã chỉ ra rằng liều rất cao (540.000IU) được dung thứ mà có tác dụng phụ.
Mỗi lần bạn xem Q.C là một lần bạn tri ân tác giả!
Vitamin D và tiền liệt tuyến
Bổ sung Vitamin D sau khi sinh thiết tuyến tiền liệt làm giảm viêm. Thậm chí có thể giúp cho tuyến tiền liệt tránh phải dùng hóa chất hoặc xạ trị bằng cách giữ cho khối u hạn chế phát triển.
Trong một nghiên cứu của Tiến sĩ Hollis và các đồng nghiệp đã nghiên cứu ảnh hưởng của việc bổ sung vitamin D trên những người bị bệnh tuyến tiền liệt. Họ được tự chọn, hoặc là vitamin D3 4.000IU/ngày hoặc giả dược trong 2 tháng trước khi phẫu thuật. Kết quả là biến GDF–15 biểu hiện gen và ức chế quá trình viêm.
Trong một nghiên cứu, những người đàn ông được chẩn đoán nguy cơ ung thư tiền liệt tuyến được dùng 4000IU vitamin D trong 1 năm. Có tới 55% đàn ông đã có sự sụt giảm về số lượng nhân sinh thiết dương tính hoặc trong điểm số Gleason.
Vitamin D và nhiễm khuẩn sơ sinh
Bổ sung vitamin D đầy đủ trong quá trình mang thai giúp ngăn chặn nhiễm trùng huyết ở trẻ sơ sinh đủ tháng. 84% trẻ ở nhóm nhiễm trùng huyết có mức trung bình 25-(OH)D3 < 11ng/ml. Mức 25-(OH)D3 trong huyết thanh bà mẹ và trẻ sơ sinh thấp hơn đáng kể ở trẻ này. Mức 25-(OH)D3 ở trẻ sơ sinh tương quan với nồng độ 25-(OH)D3 trong máu mẹ. Mức 25-(OH)D3 cũng đã cao hơn trong mùa hè và có bổ sung vitamin thường xuyên.
Trong những năm gần đây, bằng chứng mới vai trò của vitamin D đối với chức năng miễn dịch. Vitamin D đã được báo cáo là có tác dụng phức tạp về chức năng miễn dịch. Vì nó tăng cường khả năng miễn dịch bẩm sinh và điều chỉnh các phản ứng miễn dịch mắc phải. Rào cản cơ học đầu tiên với nhiễm trùng là da và biểu mô tạo thành. Vitamin D có vai trò quan trọng trong việc duy trì sự toàn vẹn tế bào biểu mô.
Vitamin D có ảnh hưởng đến cảm ứng của các peptide kháng khuẩn như cathelicidin (LL37), beta-2 và beta-3 defensins. Vitamin D cũng ảnh hưởng đến các tế bào T helper (Th)1 và 2. Th2 được trực tiếp sinh ra bởi vitamin D. Trong khi nó làm ức chế hoạt hóa và sự khác biệt của các tế bào Th1. Vitamin D có hoạt động chống viêm trên bạch cầu trung tính. Nó ngăn chặn sản xuất các cytokine gây viêm. Tạo điều kiện cho hoạt động của bạch cầu trung tính và thực bào.
Tác động kiểm soát mầm bệnh của vitamin D
Ngoài hệ thống điều tiết phản ứng viêm, vitamin D cũng có tác dụng kiểm soát mầm bệnh. Vitamin D giúp ức chế sự tăng trưởng các dòng vi khuẩn Staphylococcus aureus, S.pyogenes, K.Pneumonia và E.coli. Nó ngăn chặn vi khuẩn gây bệnh bằng cách tăng cường chức năng da và biểu mô. Thai phụ có nồng độ vitamin D cao giúp cho nồng độ Streptococci B thấp trong đường âm đạo. Vitamin D đóng vai trò như một hệ thống điều hòa miễn dịch bẩm sinh. Như các hoạt động của các tế bào mono và đại thực bào kích hoạt tế bào B và T.
Khi thiếu vitamin D trong máu dây rốn làm tăng nguy cơ nhiễm virus hợp bào hô hấp trong giai đoạn sơ sinh.
Khuyến nghị lượng vitamin D trong thời gian mang thai khoảng 400-2.000IU mỗi ngày. Có ý kiến cho rằng việc bổ sung vitamin D cao hơn có thể phòng thiếu hụt ở trẻ em. Mức độ 25-(OH)D3 của bà mẹ thấp có liên quan đến tăng nguy cơ sâu răng ở trẻ nhỏ. Việc bổ sung vitamin D thích hợp giúp nồng độ 25-(OH)D3 của bạn cao hơn khi mang thai. Khi đó, sẽ tác động có lợi trong phòng ngừa các bệnh lý của bạn và bé.
Trẻ em có nồng độ vitamin D thấp, có khả năng phát triển xơ vữa động mạch ở tuổi trưởng thành. Điều này độc lập với các yếu tố nguy cơ tim mạch thông thường.
Mỗi lần bạn xem Q.C là một lần bạn tri ân tác giả!
Vitamin D và ung thư
Các nghiên cứu cho thấy nồng độ vitamin D cao giúp giảm nguy cơ ung thư đại trực tràng. Và liên quan đến chất lượng sống tốt hơn ở bệnh nhân mắc ung thư đại trực tràng và ung thư vú.
Những bệnh nhân có nồng độ vitamin D cao hơn trước khi chẩn đoán dường như sống lâu hơn. Tính trung bình, bệnh nhân có mức vitamin D cao nhất sống lâu hơn mức thấp nhất 33%. Bạn nên uống 8.000IU mỗi ngày trong 2 tuần và sau đó 4.000IU mỗi ngày duy trì kéo dài.
So với bình thường, phụ nữ có nồng độ vitamin D rất thấp lúc chẩn đoán, có tới 94% khả năng phát triển di căn. Và có tới 73% nguy cơ tử vong.
Vitamin D giúp dừng khối u tăng trưởng
Vitamin D làm cho các tế bào dính lại với nhau. Đặc biệt là tế bào biểu mô vú bằng cách sản xuất điều hòa tăng sự tổng hợp của E-cadherin. Nếu mức độ vitamin D xuống thấp, các tế bào biểu mô vú không dính vào nhau. Điều này làm các tế bào gốc của nó trải qua quá trình nguyên phân nhanh chóng. Các tế bào sinh sản nhanh có thể tạo ra một bản sao ung thư mà cuối cùng xâm nhập màng đáy. Nếu tiếp tục thiếu vitamin D, những tế bào này sẽ vào các mạch bạch huyết, di căn lên não, xương, phổi và tiêu diệt bệnh nhân.
Các bác sĩ nên đo nồng độ vitamin D ở những bệnh nhân ung thư vú của họ. Nếu họ thiếu, cần bắt đầu bổ sung ngay lập tức > 40.000IU vitamin D hàng ngày để nồng độ 40 – 60ng/ml. Nó cũng rất quan trọng để đo lường calci huyết. Bạn nên bổ sung 1.500mg canxi cùng với vitamin D hàng ngày. Bởi vì, có những thử nghiệm lâm sàng cho thấy vitamin D hoạt động tốt nhất khi đi kèm với liều canxi đó. Canxi là tốt nhất, nếu nó được lấy từ thức ăn.
Vitamin D và đột quỵ não
Nồng độ vitamin D thấp có liên quan với khối lượng nhồi máu não lớn hơn. Kết quả tồi tệ hơn ở những bệnh nhân bị đột quỵ thiếu máu cục bộ. Các nghiên cứu cho thấy bệnh nhân nồng độ vitamin D < 30 ng/ml có nguy cơ nhồi máu > 2 lần bình thường. Và có nguy cơ cao hơn cho sự phụ thuộc chức năng ở 3 tháng tiếp theo.
Nghiên cứu dựa vào dân số đã chỉ ra mối liên hệ giữa vitamin D thấp và đột quỵ. Vitamin D ảnh hưởng đến các yếu tố nguy cơ đột quỵ như cao huyết áp và tiểu đường. Có thể lần lượt tăng nguy cơ đột quỵ hoặc gây ra các cơn đột quỵ nặng hơn.
Những bệnh nhân có nồng độ vitamin D thấp thì khối lượng nhồi máu > 2 lần bình thường, khoảng 17 và 8ml. Mối quan hệ giữa vitamin D và kích thước vùng nhồi máu là quan trọng nhất trong vòng 2 tuần sau khi đột quỵ. Cho thấy gia tăng gấp 4 lần khối lượng tổn thương khuếch tán ở những người có lượng vitamin D thấp và những người bình thường.
Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng nồng độ vitamin D thấp làm tăng gấp đôi nguy cơ đột quỵ (ở phụ nữ). Hơn nữa, nồng độ vitamin D thấp có liên quan với tăng nguy cơ gãy xương hông sau đột quỵ.
Mỗi lần bạn xem Q.C là một lần bạn tri ân tác giả!
Vitamin D và viêm ruột
Thiếu hụt Vitamin D thường gặp ở những bệnh nhân bị bệnh viêm ruột (IBD) từ 16 – 95%. Bao gồm những người có bệnh mới được chẩn đoán. Thiếu hụt vitamin D làm tăng tính nhạy cảm với viêm đại tràng, trong khi 1,25(OH)2D3 cải thiện tình trạng viêm đại tràng.
Tỷ lệ thiếu Vitamin D trong IBD
Vitamin D huyết thanh < 20ng/ml (50nmol/l) chỉ ra sự thiếu hụt nặng. Từ 21 – 29 ng/ml (52,5 – 72,5 nmol/l) là thiếu hụt nhẹ. Từ 30 – 100 ng/ml (75 – 250 nmol/l) là bình thường. Tỷ lệ thiếu hụt vitamin D ở trẻ em mắc IBD là 62% thấp hơn khả năng kiểm soát là 75%. Người lớn mắc IBD thì gần 50% thiếu hụt vitamin D và khoảng 11% thiếu hụt nghiêm trọng. Một nghiên cứu chẩn đoán IBD ở Manitoba providence-Canada, chỉ có 22% có đủ lượng vitamin D.
Nguyên nhân của tình trạng thiếu Vitamin D ở các bệnh nhân IBD
Tiếp xúc không đủ ánh sáng mặt trời là nguyên nhân quan trọng của thiếu hụt vitamin D ở những bệnh nhân IBD. Trong một khảo sát dinh dưỡng ở 126 bệnh nhân IBD. Thì không đủ vitamin D ở 36% bệnh nhân và nồng độ huyết thanh dưới mức tối ưu ở 18% bệnh nhân.
Chất béo và các vitamin tan trong dầu hấp thu sau khi được nhũ tương hóa bởi acid mật. Gián đoạn lưu thông ruột có thể đóng góp vào sự thiếu hụt vitamin D. Do acid mật không được lưu thông xuống ruột để nhũ tương hóa vitamin D. Giảm hấp thu vitamin D ở bệnh nhân Crohn(CD) do nó được hấp thu ở phần gần của ruột non.
Vitamin D và miễn dịch bẩm sinh
Vitamin D ở khắp nơi trong cơ thể bao gồm các TB miễn dịch, TB sừng, tuyến tụy, TB cơ tim, hệ thần kinh trung ương, ống thận và ruột. Nhiều mô trong đó cũng chứa các enzym chuyển vitamin D thành có hoạt tính. Vitamin D có một vai trò quan trọng trong miễn dịch bẩm sinh và miễn dịch thích ứng. Nó hoạt động như một liên kết quan trọng giữa các thụ thể toll-like kích hoạt và khả năng kháng khuẩn của miễn dịch bẩm sinh.
Vitamin D cũng đóng một vai trò trong việc ngăn chặn sự kích hoạt các phản ứng gây viêm. 1,25(OH)2D trong monocytes ức chế lipopolysaccharide p38-induced phosphoryl hóa và sản xuất IL-6 và TNF-α trong monocytes LPS kích thích. Antigen trình diện tế bào, kể cả tế bào đuôi gai. Các hoạt động của 1,25(OH)2D trên các tế bào đuôi gai dẫn đến một kiểu hình tolerogenic Do đó bảo vệ chống lại bệnh tiểu đường type 1 tự miễn dịch ở chuột bị tiểu đường không béo phì.
Vitamin D và thích ứng Immunity
Vitamin D receptor được thể hiện trong các tế bào lympho T và B phân bào hoạt động. 1,25(OH)2D tác động lên TB T hỗ trợ, ức chế sản xuất IL-2 và globulin miễn dịch của TB. TB điều tiết T có trách nhiệm bảo trì các dòng tự kháng nguyên được điều tiết bằng 1,25(OH)2D. Mặc dù tác dụng của vitamin D trên tế bào B chủ yếu thông qua điều tiết các chức năng của tế bào T. Bằng chứng gần đây cho thấy rằng 1,25(OH)2D có thể tác động trực tiếp vào các tế bào B. Ảnh hưởng đến sự phát triển của các tế bào B hoạt hóa và ức chế tạo ra các tế bào plasma và chuyển đổi các tế bào bộ nhớ B.
Thực hành lâm sàng
Bệnh nhân với IBD có nguy cơ phát triển thiếu hụt vitamin D. Cần 400IU mỗi ngày với trẻ sơ sinh, 600IU cho trẻ > 1 tuổi và người lớn và 800IU cho người già trên 70 tuổi. Tuy nhiên, để luôn nâng cao 25(OH)D > 30 ng/mL, đặc biệt là ở những bệnh nhân có nguy cơ bị thiếu hụt vitamin D. Để điều trị thiếu vitamin D, vitamin D2 hoặc D3 vitamin với liều 2000IU mỗi ngày trong 6 tuần. Hoặc 50000IU một lần một tuần trong 6 tuần hoặc 6000IU mỗi ngày trong 8 tuần, để đạt nồng độ 25(OH)D > 30ng/ml.
Các phác đồ điều trị tối ưu ở những bệnh nhân IBD đã được kiểm tra trong một thử nghiệm lâm sàng. Trong đó 71 bệnh nhân IBD tuổi 5 – 21 năm với thiếu hụt vitamin D được chọn ngẫu nhiên một trong ba phác đồ sau đây trong 6 tuần. 2.000IU mỗi ngày của vitamin D2; 2.000IU mỗi ngày của vitamin D3; hoặc 50.000IU mỗi tuần vitamin D2. Trong khi chế độ 50.000IU mỗi tuần của vitamin D2 cải thiện nồng độ 25(OH)D ở 75% bệnh nhân. Chỉ có 38% bệnh nhân nhận được 2000IU vitamin D3 hàng ngày và 25% của bệnh nhân được nhận 2000IU vitamin D2 huyết thanh đạt sau 6 tuần điều trị. Tất cả ba phác đồ đã được tìm thấy là an toàn và dung nạp tốt.
Mỗi lần bạn xem Q.C là một lần bạn tri ân tác giả!
Vitamin D và hen suyễn
Nồng độ 25(OH)D ở bệnh nhân hen người lớn là thấp phổ biến. Mức 25(OH)D có liên quan đến mức độ nghiêm trọng bệnh hen suyễn và mức kiểm soát. Tần số của vitamin D thiếu hụt cao hơn đáng kể ở những bệnh nhân bị suyễn nặng hoặc không được kiểm soát. Việc sử dụng corticosteroid đường uống hoặc đờm bạch cầu ái toan có liên quan với nguy cơ 20% hoặc 40% lượng vitamin D thiếu hụt.
Hen suyễn mức độ nghiêm trọng và kiểm soát hen suyễn
Trong một nghiên cứu, nồng độ 25(OH)D là 25,6 (± 11,8) ng/ml ở người mắc bệnh hen và 26,2 (± 16,8) ng/ml ở người tình nguyện khỏe mạnh. Trong số những người bị suyễn, 35,4% bệnh nhân có nồng độ 25(OH)D bình thường, 31,8% vitamin D thiếu (20 – 29 ng/ml) và 32,9% là vitamin D thiếu nặng (0 – 19 ng/ml). Nồng độ 25(OH)D có liên quan đáng kể đến mức độ nghiêm trọng bệnh hen suyễn kiểm soát hen suyễn. Khoảng 75% bệnh nhân bị suyễn nặng hoặc không kiểm soát được có nồng độ vitamin D < 30ng/ml.
Bệnh nhân bị bệnh hen suyễn nặng và không kiểm soát được có 25(OH)D thấp nhất so với bệnh nhân nhẹ hoặc vừa phải và kiểm soát hoặc kiểm soát một phần suyễn. Những bệnh nhân này nguy cơ mắc cao hơn 20% hoặc 30%. Tỷ lệ vitamin D thiếu ở bệnh nhân bị suyễn nặng hoặc không kiểm soát là 1,9 và 2,1.
25(OH)D và đặc điểm lâm sàng của hen suyễn
Ở những bệnh nhân bị hen suyễn, mức độ 25(OH)D tương quan thuận với FEV1. Vitamin D thiếu ở những bệnh nhân có FEV1 thấp và đờm tăng bạch cầu ái toan. Bệnh nhân có bạch cầu ái toan đờm ≥ 3% kèm theo thiếu vitamin D có nguy cơ mắc hen cao hơn 40%. Không có sự liên quan sát được giữa 25(OH)D và nồng độ IgE trong huyết thanh.
Mức 25(OH)D và FEV1
Trong số các phương pháp điều trị khác nhau cho các bệnh nhân hen suyễn. Việc sử dụng các steroid đường uống duy trì hàng ngày liên quan đáng kể đến 25(OH)D. Bệnh nhân sử dụng corticoid đường uống có nguy cơ cao hơn 20% khi không đủ vitamin D so với bệnh nhân không cần uống corticosteroid đường uống. Không có sự liên quan giữa việc sử dụng và liều dùng hàng ngày của ICS và mức 25(OH)D. Nhưng 25(OH)D được tương quan nghịch với chỉ số BMI. Bệnh nhân đủ Vitamin D có chỉ số BMI cao hơn đáng kể.
Tần số thiếu hụt vitamin D cao nhất ở những bệnh nhân bị hen suyễn nặng không kiểm soát. Đặc biệt ở bệnh nhân có bạch cầu ái toan đờm ≥ 3%, dù điều trị bằng corticosteroid dạng hít hay uống. Các nghiên cứu hiện tại và mở rộng cho thấy tình trạng vitamin D có liên quan với mức độ nghiêm trọng và kiểm soát bệnh hen suyễn ở trẻ em. Thiếu vitamin D có thể làm nghiêm trọng hơn tình trạng hen suyễn ở trẻ em. Khuyến cáo các trẻ em có hen suyễn nên được bổ sung hằng ngày và nâng liều cao khi có đợt cấp.
Mỗi lần bạn xem Q.C là một lần bạn tri ân tác giả!
Nguồn cung cấp vitamin D từ thức ăn
20% nguồn cung cấp vitamin D từ thức ăn có nguồn gốc động vật và thực vật.
Không phải loại thực phẩm nào cũng có thể trở thành nguồn cung cấp vitamin D tốt cho bé. Vitamin D3 có trong các nguồn thức ăn động vật như gan cá. Thịt, lòng đỏ trứng, bơ, sữa chỉ có một ít vitamin D. Các loại nấm, men, rau quả, dưới tác động của tia cực tím cũng chuyển thành vitamin D2 có tác dụng như vitamin D3.
Nguồn cung cấp vitamin D từ tự nhiên
Vitamin D thường được xem là “vitamin D trời cho” vì nó được sản xuất từ ánh nắng mặt trời. Khoảng 80% trong cơ thể là do da sản sinh và chỉ khoảng 20% là do nguồn thực phẩm. Thực phẩm chúng ta dùng hàng ngày chứa rất ít vitamin D. Các loại cá như cá hồi, cá tuyết, cá thu, cá trích có lượng cao hơn những cá khác. Nấm phơi khô cũng chứa vitamin D. Những cá và nấm trên đây hàm chứa khoảng 400-500IU vitamin D tùy vào liều lượng ăn uống.
Nhiều nghiên cứu cho thấy, vào mùa hè chỉ cần phơi nắng 10 – 30 phút hay với người da trắng chờ đến khi da chuyển màu. Lúc đó cơ thể chúng ta đã sản xuất được trung bình 20.000IU vitamin D. Nhưng ở một số người mức độ có thể dao động từ 10.000 đến 50.000IU. Da chúng ta có khả năng rất tuyệt vời, đó là phòng ngừa ngộ độc vitamin D. Cho dù chúng ta phơi nắng cả giờ đồng hồ và mức độ vitamin D sản xuất tăng trên 50.000IU thì da vẫn có khả năng đào thải số lượng không cần thiết. Do đó, trong lịch sử chưa có ai ngộ độc vitamin D vì phơi nắng.
Mỗi lần bạn xem Q.C là một lần bạn tri ân tác giả!
Vitamin D tổng hợp
Các nguồn chính của vitamin D là sản xuất nội sinh trong da. Nơi năng lượng tia cực tím trong ánh sáng mặt trời chuyển đổi 7-dehydrocholestrol thành cholecalciferol (vitamin D3). Từ việc sản xuất nội sinh khi tiếp xúc với ánh sáng mặt trời cũng như hấp thụ từ chế độ ăn uống được chuyển hóa trong gan 25-hydroxyvitamin D (25(OH)D) bởi các enzyme vitamin D 25-hydroxylase. 25(OH)D là hình thức lưu thông chính của vitamin D. Là hoạt tính sinh học và được kích hoạt trong ống gần của nephron trong thận bởi các enzyme 25-hydroxyvitamin D-1alpha-hydroxylase (còn được gọi là CYP27B1) đến 1,25-dihydroxyvitamin D (1,25(OH)2D).
Việc tổng hợp thận của các sản phẩm sinh học hoạt động của vitamin D (1,25(OH)2D) được quy định bởi các yếu tố khác nhau bao gồm canxi huyết thanh và nồng độ phốt pho và tăng trưởng nguyên bào sợi parathormone yếu tố 23.
Nhu cầu vitamin D hằng ngày của bé yêu
Thiếu hụt Vitamin D đã được nhìn thấy trong 91,4% và 93,0%. Việc bổ sung là cần thiết cho tất cả các đối tượng không được tiếp xúc trực tiếp với ánh nắng mặt trời. Hoặc những người ít tiếp xúc với ánh nắng mặt trời và ko đủ sản xuất dưới da.
Sữa mẹ là nguồn dinh dưỡng tốt nhất cho bé. Nhưng hàm lượng vitamin D trong sữa mẹ tương đối thấp (< 25 – 78 IU/L), không đủ để đáp ứng nhu cầu của bé. Mỗi ngày cần bổ sung vitamin D cho bé với hàm lượng 400IU/ngày cho các bé sơ sinh bú mẹ. Cần bổ sung cho tới khi bé có chế độ ăn cung cấp đủ nhu cầu vitamin D. Thời gian này thường là đủ 18 – 24 tháng sau sinh. Đối với các bé sơ sinh không thể tiếp xúc trực tiếp với ánh sáng mặt trời mỗi ngày. Cần được bổ sung vitamin D với lượng 800IU/ngày.
Sau khi sinh khoảng 10 ngày, trẻ bắt đầu có thể được tắm nắng. Tắm nắng là một hoạt động không thể thiếu trong quá trình phát triển của các bé sơ sinh. Tia cực tím giúp diệt khuẩn, chống viêm, kích hoạt da sản sinh vitamin D3 làm tăng cường hấp thụ canxi và photpho. Đây là hai thành phần chính cấu tạo nên xương. Có tới 80% nguồn cung cấp vitamin D do tác động của ánh sáng mặt trời chiếu vào da. Nó chuyển chất tiền vitamin D thành vitamin D thể hoạt động để đưa vào máu sử dụng.
Nhu cầu vitamin D hằng ngày của mọi người
Nhu cầu hàng ngày của Vitamin D thay đổi tùy theo độ tuổi. IOM khuyên phụ cấp chế độ ăn uống hàng ngày của 600IU/ngày cho hầu hết người lớn. Người lớn > 70 tuổi nên tiêu thụ 800IU/ngày. Nồng độ vitamin D có thể giảm khi tiếp xúc với ánh sáng mặt trời giảm hoặc do nhu cầu sử dụng. Ở trẻ em, thiếu vitamin D có thể dẫn đến bệnh còi xương, làm xương mềm và biến dạng xương. Ở người lớn, thiếu vitamin D có thể dẫn đến giảm mật độ xương. Khi cung cấp đủ, mật độ xương có thể được giữ nguyên giúp giảm nguy cơ loãng xương và thoái hóa xương.
Khi có biểu hiện còi xương thiếu vitamin D có thể bạn cần phải dùng liều cao lên tới 4.000 – 6.000IU/ngày trong 12 tuần liên tục. Và được đánh giá lại bởi các bác sĩ chuyên khoa để quyết định chuyển liều như thế nào cho hợp lý.
Khi có biểu hiện nhiễm trùng, bạn có thể dùng liều lên tới 10.000IU/ngày trong 10 ngày. Nó sẽ giúp bạn tăng sức đề kháng tốt hơn.
Bài viết chỉ mang tính chất tham khảo! Bạn nên tham khảo ý kiến bác sĩ của mình trước khi thực hiện bất kỳ một hành động nào cho bé.
Chúc bạn có cuộc sống an lành!
Bác Sĩ Hướng
13 comments on “VAI TRÒ VITAMIN D”