Mục lục

KHÁI QUÁT VỀ LOÃNG XƯƠNG

Quá trình tạo xương của bất kỳ xương nào cũng có hai hiện tượng trái ngược nhau cùng đồng thời diễn ra. Đó là phát triển xương và phá hủy xương. Do đó, ngay ở một xương đang hình thành sẽ có vị trí xương đang được xây dựng và vị trí khác lại có sự phá hủy và sửa sang lại.

Xương được đổi mới liên tục qua hai quá trình tạo xương và tái tạo xương. Việc đổi mới mô xương là do hoạt động của tạo cốt bào và hủy cốt bào. Hai loại tế bào này hoạt động dọc theo các bề mặt của xương.

Quá trình tạo xương diễn ra chủ yếu lúc tuổi đời còn trẻ. Nhờ quá trình này hình dạng của bộ xương được thay đổi. Nó tạo ra một kiến trúc bình thường trong giai đoạn tăng trưởng, làm tăng kích thước của đốt sống trong cuộc đời.

Quá trình tái tạo xương diễn ra ở giai đoạn trưởng thành nhưng không làm thay đổi hình dạng của bộ xương.

Cả hai quá trình hủy xương và tái tạo xương diễn ra cân bằng để duy trì tính toàn vẹn nhất quán của bộ xương. Có rất nhiều yếu tố làm thay đổi và điều hòa sự tạo xương và tái tạo xương. Tốc độ của quá trình tái tạo xương từ 2 – 10% của toàn bộ xương trong một năm. Tham gia điều hòa quá trình này có vai trò quan trọng của hormon PTH, Calcitonin, nồng độ Calci, Phospho trong máu và Vitamin D.

Ở người khỏe mạnh, xương xốp chiếm 25% toàn bộ khối xương nhưng chiếm 80% của vòng luân chuyển xương. Trong khi đó, xương đặc chiếm 80% khối lượng bộ xương nhưng chỉ chiếm 20% vòng luân chuyển xương. Do đó, loãng xương thường được biểu hiện đầu tiên và chủ yếu là xương xốp.

Trong tình trạng cân bằng, xương được tạo thành trong quá trình tái tạo xương bằng với lượng xương bị tiêu huỷ. Nếu xương bị tiêu hủy nhiều hơn xương được tạo thành thì mất xương xảy ra và loãng xương được hình thành.

Mật độ xương đỉnh là mật độ của mô xương có được lúc kết thúc giai đoạn trưởng thành. Trong quá trình phát triển, mật độ xương tăng dần để đạt tới giá trị tối đa của người trưởng thành. Sau đó, mật độ xương sẽ giảm dần do quá trình mất xương liên quan đến tuổi.

Mật độ xương đỉnh là một trong những yếu tố quyết định khối lượng xương của cơ thể. Là yếu tố quyết định quan trọng của nguy cơ gãy xương do loãng xương.

Tiêu chuẩn vàng để chẩn đoán loãng xương là dựa vào chỉ số T (T-score) của cổ xương đùi đo bằng máy DXA. Theo lý thuyết, chỉ số T là kết quả của 2 thông số: mật độ xương đỉnh (peak bone mineral density – pBMD) và độ lệch chuẩn (SD) của nó.

Các nghiên cứu đều cho thấy mật độ xương biến đổi tùy theo độ tuổi và giới. Ở bất cứ độ tuổi nào, nam có mật độ xương cao hơn nữ. Ở cả hai giới, độ tuổi là yếu tố đứng đầu ảnh hưởng đến mật độ xương. Trong giai đoạn dậy thì, mật độ xương tăng rất nhanh và đạt mức độ đỉnh (peak BMD) vào độ tuổi từ 20 – 30. Sau độ tuổi này, mật độ xương bắt đầu suy giảm và mức độ suy giảm (hay mất xương) một cách đáng kể sau thời kỳ mãn kinh. Độ lệch chuẩn (standard deviation – SD) không khác biệt đáng kể giữa các độ tuổi.

Dựa vào các đặc điểm trên đây, các nhà nghiên cứu đề nghị chuẩn hóa cách đo mật độ xương bằng chỉ số T. Chỉ số T có thể ước tính theo công thức sau:

                  T= (iBMD – mBMD)/SD

Trong đó, iBMD là mật độ xương đối tượng I, mBMD là mật độ xương trung bình của quần thể trong độ tuổi 20 – 30 (pBMD) và SD là độ lệch chuẩn của mật độ xương trung bình của quần thể trong độ tuổi 20 – 30.

Mật độ xương và SD ở phụ nữ Việt Nam dao động giữa các độ tuổi có thể ước tính tối đa là 0,94g/cm – 0,1g/cm2 tại cổ xương đùi và 0,16g/cm – 0,13g/cm2 tại cột sống. Dựa vào các thông số thực tế này có thể ước tính chỉ số T cho bất cứ cá nhân nào.

Ví dụ: Mật độ xương tại cổ xương đùi của một phụ nữ là 0,7g/cm2, chỉ số T tương đương với trị số đo này là:  T =  (0,7 – 0,94)/0,11= -2,18. Mật độ xương của phụ nữ này thấp hơn lúc tuổi 20 – 30 khoảng 2,2 độ lệch chuẩn.

Mật độ xương đỉnh (PBMD) và tuổi đạt được mật độ xương đỉnh ở nam và nữ

 Giới
pBMD (g/cm2)/SDNamNữ
Cổ xương đùi, Xương đùi, Xương sống thắt lưng0,85 (0,13) 1,00 (0,13) 1,05 (0,12)0,80 (0,11) 0,95 (0,12) 0,96 (0,11)
Tuổi đạt pBMD (năm)  
Cổ xương đùi, Xương đùi, Xương sống thắt lưng26 (24-29) 32 (29-35 ) 27 (25-29)22 (19-24) 32 (25-30 ) 27 (23-27)

Có rất nhiều yếu tố quyết định đỉnh khối xương. Đó là các yếu tố di truyền, giới tính, nội tiết, dinh dưỡng, hoạt động thể lực, yếu tố môi trường…

Đã có nhiều nghiên cứu về ảnh hưởng của các yếu tố này đối với đỉnh khối xương. Trong đó, có những yếu tố đã được biết là ảnh hưởng rõ đối với đỉnh khối xương nhưng cũng có những yếu tố chưa được tìm hiểu kỹ mà vẫn còn trong giai đoạn nghiên cứu.

Các yếu tố đã được biết rõ:

  • Nội tiết: phái nữ, tình trạng dậy thì muộn, mãn kinh sớm, chưa sinh đẻ.
  • Dinh dưỡng: thành phần Calci, Vitamin D, protein trong chế độ ăn.
  • Yếu tố sinh hoạt: kiểu sống ít hoạt động…

Các yếu tố còn đang nghiên cứu như:

  • Di truyền: hiện vẫn chưa xác định được gen nào đóng vai trò quan trọng trong việc xác định đỉnh khối xương.
  • Nhân chủng: người da trắng, châu Á có đỉnh khối xương thấp hơn nên có nguy cơ cao hơn với bệnh loãng xương. Hiện vẫn còn là vấn đề chưa thống nhất qua các nghiên cứu với các kết quả khác nhau.

Chế độ dinh dưỡng

Rất quan trọng trong quá trình phát triển xương từ khi còn nhỏ và tuổi thanh thiếu niên. Đặc biệt là vấn đề sử dụng Calci giúp xương khỏe và đạt được khối lượng xương đỉnh cao. Ở trẻ em trước tuổi dậy thì có lượng calci trong chế độ ăn đáp ứng nhu cầu khuyến nghị. Bổ sung thêm calci làm tăng cường tốc độ gia tăng mật độ khoáng xương. Nếu điều đó được duy trì, mật độ xương đỉnh được tăng lên và nguy cơ gãy xương sau này giảm đi.

Chế độ tập luyện

Tập luyện làm tăng sức chịu tải, làm tăng mật độ xương. Nếu ít hoạt động sẽ làm hạn chế đạt khối lượng đỉnh của xương. Một nghiên cứu trong 6 năm đã cho thấy 53 trẻ gái và 60 trẻ trai có hoạt động thể lực. Thì có khối lượng xương cao hơn so với trẻ cùng lứa tuổi không có hoạt động thể lực. Tốc độ đạt khối lượng xương đỉnh cũng sớm hơn so với trẻ cùng tuổi ít hoạt động là 1 năm.

Các hormon giới tính

Nếu giảm sẽ làm chậm tuổi dậy thì, giảm sự phát triển của xương, giảm khối lượng xương đỉnh. Khoảng 50% khối lượng xương được tăng lên trong giai đoạn dậy thì. Có ý nghĩa quyết định để hình thành một bộ xương khỏe mạnh khi trưởng thành và giảm tốc độ mất xương khi lớn tuổi và tiền mãn kinh. Nếu dậy thì muộn cũng ảnh hưởng tới khối lượng xương đỉnh.

Mất xương thực chất là một hiện tượng sinh lý bình thường trong quá trình phát triển cơ thể. Sau khi đạt tới đỉnh xương ở tuổi trưởng thành, khối lượng xương sẽ giảm dần theo tuổi đời. Riggs đã phân chia quá trình biến đổi này thành 3 giai đoạn:

  • Giai đoạn 1: khối xương tăng dần để đạt giá trị tối đa.
  • Giai đoạn 2: giai đoạn mất xương chậm phụ thuộc vào tuổi. Bắt đầu ở sau tuổi 40 đối với các xương dài, xương xốp mất xương sớm hơn 5 – 10 năm. Tỷ lệ mất xương chậm trong giai đoạn này tương tự nhau ở nam và nữ. Vì gây ra mất một khối lượng tương tự của xương xốp và xương đặc.
  • Giai đoạn 3: giai đoạn mất xương nhanh, thường xuất hiện ở phụ nữ sau mãn kinh do thiếu hụt Estrogen. Sự mất xương xuất hiện ở tất cả các vị trí: xương hộp sọ, xương tay, xương cột sống, xương chậu. Tốc độ mất xương sau mãn kinh khoảng từ 1 – 5% mỗi năm.

Như vậy, sự mất xương khác nhau không chỉ ở các vị trí của xương mà còn ở từng người.

Theo Riggs, một phụ nữ sẽ mất khoảng 35% xương đặc và khoảng 50% xương xốp. Trong khi đó nam giới chỉ mất 2/3 số lượng này trong cuộc đời.

Khi xem các tiêu chuẩn chẩn đoán loãng xương trên lâm sàng, cần phải phân biệt các khái niệm sau:

  • Giảm mật độ xương (osteopenia): khối lượng xương thấp đơn thuần so với tuổi và giới. Còn được gọi là tình trạng nhược xương sinh lý.
  • Loãng xương (osteoporosis): còn gọi là thưa xương, xốp xương. Là tình trạng giảm đáng kể khối lượng xương. Thường đi kèm với gãy xương tự nhiên hoặc do một chấn thương rất nhẹ. Đặc biệt là sự có mặt của lún một hoặc nhiều đốt sống.
  • Nhuyễn xương (osteomalacia): là tình trạng xốp xương và rối loạn quá trình lắng đọng chất khoáng liên quan tới sự thiếu hụt Vitamin D, gặp chủ yếu ở những người già.

Loãng xương và nhuyễn xương có thể đi kèm với nhau do có sự đề kháng tương đối với Vitamin D ở người già. Loãng xương – nhuyễn xương là bệnh phối hợp giữa sự mất tổ chức xương và các viền dạng cốt bào.

Khi loãng xương xuất hiện tự nhiên, không tìm thấy bất kỳ một nguyên nhân nào khác ngoài tuổi tác hoặc tình trạng mãn kinh thì nó được gọi là loãng xương tiên phát.

Chia ra loãng xương typ I hay loãng xương sau mãn kinh và loãng xương typ II hay loãng xương tuổi già. Sự phân biệt hai typ chủ yếu phụ thuộc vào tuổi và giới:

  • Loãng xương typ I: xuất hiện trong vòng 10 – 20 năm sau mãn kinh. Đặc trưng bởi sự mất chủ yếu bè xương (xương xốp). Thường gây ra gãy xương ở những vị trí có thành phần bè xương cao như: Cột sống, đầu dưới xương quay, đầu dưới xương chày. Loãng xương typ I có liên quan chặt chẽ đến mãn kinh. Ngoài sự thiếu hụt Estrogen còn thấy sự giảm tiết hormon cận giáp trạng (PTH), tăng bài tiết calci qua nước tiểu, suy giảm hoạt động enzym 25-OH vitamin D và 1ª hydroxylase, làm giảm sự hấp thu calci ở ruột.
  • Loãng xương typ II: xuất hiện muộn ở cả nam và nữ. Thường trên 70 tuổi với tỷ lệ nữ so với nam bằng 2/1. Hậu quả của sự mất xương chậm trong vòng vài chục năm. Biểu hiện chính là gãy cổ xương đùi, gãy lún các đốt sống. Do tổn thương xuất hiện đồng đều trên cả xương đặc (xương vỏ) cũng như xương xốp (bè xương). Typ loãng xương này liên quan tới hai yếu tố quan trọng là giảm hấp thu calci, giảm chức năng tạo cốt bào dẫn tới cường cận giáp thứ phát.

Loãng xương ở phụ nữ là hậu quả của sự mất xương đơn thuần do mãn kinh hay mất xương liên quan tới tuổi.

Bên cạnh loãng xương tiên phát, một dạng loãng xương có liên quan chặt chẽ tới những yếu tố bệnh lý mà người ta biết rất rõ ràng. Chúng có thể gây ra mất xương, đó là loãng xương thứ phát được phát hiện ở cả hai giới là hậu quả của một số tình trạng bệnh lý. Ngoài những bệnh như: cường chức năng vỏ thượng thận, cường giáp, cường cận giáp tiên phát, hội chứng kém hấp thu, các bệnh gan, thận mãn tính…

Đáng lưu ý là một khối lượng xương thấp còn thấy ở những đối tượng có tình trạng dinh dưỡng kém, nghiện rượu, thuốc lá. Đặc biệt loãng xương như là một hậu quả chắc chắn của một số thuốc điều trị: glucocorticoid, heparin, thuốc chống co giật… khi sử dụng kéo dài. Các nguyên nhân thứ phát của loãng xương được xác định ở 20% nữ và 40% nam. Với biểu hiện lún đốt sống không do chấn thương.

Loãng xương

Cũng giống như các cơ quan khác trong cơ thể, bộ xương cần một nguồn cung cấp liên tục về năng lượng và các chất dinh dưỡng. Những năm quan trọng để xây dựng khối lượng xương là ở thời kỳ ấu thơ và vị thành niên. Bởi vì ở giai đoạn này sự thành lập xương mới nhanh hơn so với sự hủy xương. Làm cho xương trở nên lớn hơn và dày đặc hơn.

Những yếu tố liên quan đến loãng xương thay đổi được

  • Chế độ ăn ít Calci.
  • Protein cung cấp không đủ sẽ làm giảm khối lượng xương trong thời kỳ thanh thiếu niên. Nó giúp cho việc duy trì khối lượng xương ở giai đoạn già hóa. Ngược lại, nhiều protein có thể có tác động tiêu cực trên sự trao đổi Calci gây mất xương.
  • Vitamin K cần thiết cho việc sản xuất và hoạt động của Osteocalci. Thiếu Vitamin K sẽ góp phần làm giảm mật độ xương và gia tăng nguy cơ gãy xương ở người già.
  • Sử dụng thức uống có gas mức độ cao làm giảm mật độ xương. Hoặc gia tăng tỷ lệ gãy xương trong thanh thiếu niên.
  • Cà phê làm gia tăng bài xuất Calci qua đường niệu và giảm hấp thu Calci. Uống rượu vừa phải sẽ không gây hại cho xương. Nhưng uống mức độ hơn 2 đơn vị tiêu chuẩn hàng ngày, 1 đơn vị = 25ml Alcohol 40%. Sẽ đưa đến gia tăng đáng kể nguy cơ gãy xương hồng và các xương khác do loãng xương.
  • Uống rượu quá mức sẽ có tác động trực tiếp gây tổn thương các tế bào tạo xương. Và ảnh hưởng đến các nội tiết tố điều chỉnh sự trao đổi Calci.
  • Người hút thuốc có khối lượng khoáng xương tại cổ xương đùi và cột sống cũng thấp hơn người không hút.
  • Thiếu cân là một yếu tố nguy cơ của bệnh loãng xương. Vì trọng lượng cơ thể thấp có liên quan với mật độ xương đỉnh thấp trong giai đoạn phát triển xương ở tuổi trẻ và tăng nguy cơ gãy xương ở người già.
  • Những người có lối sống ít vận động có nhiều khả năng bị gãy xương hông hơn những người thường xuyên vận động.

Các yếu tố liên quan đến loãng xương không thay đổi

  • Tuổi có liên quan đến loãng xương, tuổi càng cao tỷ lệ bệnh loãng xương càng cao.
  • Giới: phụ nữ, đặc biệt là phụ nữ sau mãn kinh dễ bị mất xương hơn nam giới vì cơ thể họ sản xuất ít Estrogen. Mãn kinh sớm, có kinh muộn và tất cả phụ nữ sau mãn kinh là yếu tố nguy cơ của bệnh loãng xương.
  • Di truyền cũng đóng một vai trò lớn trong bệnh loãng xương. Trong thực tế, cha mẹ có tiền sử gãy xương là một yếu tố nguy cơ và đó là nguy cơ độc lập của mật độ xương. Người có tiền sử gia đình bị gãy xương có nguy cơ bị gãy xương tăng gấp 1,5 – 2 lần so với người không có tiền sử này.
  • Các dân tộc, chủng tộc khác nhau đều có liên quan đến loãng xương ở mức độ khác nhau. Bệnh thường gặp ở người da trắng và người Châu Á. Tỷ lệ gãy xương hông và xương sống ở người Châu Phi thấp hơn người da trắng.
  • Sử dụng corticoid liệu pháp sẽ dẫn đến nguy cơ loãng xương và liên quan đến gãy xương. Người bệnh có thể bị mất xương đáng kể tùy theo thời gian và liều lượng thuốc sử dụng.

Các yếu tố liên quan gây loãng xương thứ phát

  • Mắc một số bệnh: viêm khớp dạng thấp và các bệnh của hệ thống nội tiết. Cường cận giáp làm gia tăng nồng độ hormon cận giáp tác động tế bào xương để giải phóng Calci từ xương vào máu. Hormon tuyến giáp tăng quá mức mà không điều trị kịp thời cũng có thể dẫn đến loãng xương.
  • Sử dụng lâu dài thuốc Corticoid uống hoặc hít nhằm điều trị viêm khớp, dị ứng, bệnh Crohn, hen suyễn và các bệnh hô hấp mạn tính sẽ gây suy giảm mật độ xương. Một số thuốc khác cũng ảnh hưởng đến xương như: thuốc chống động kinh, thuốc lợi tiểu Thiazid, thuốc chống đông máu (Wafarine), thuốc chống ung thư…

Triệu chứng lâm sàng của loãng xương chủ yếu là gãy xương. Gãy xương xảy ra sau một chấn thương nhẹ thường gặp trong cuộc sống hàng ngày.

Gãy xương đốt sống

Thường biểu hiện:

  • Đau lưng cấp xảy ra sau khi cúi hoặc nâng một vật đột ngột hoặc sau khi ho. Nhưng gãy đốt sống có thể không có triệu chứng chỉ biểu hiện gù dần dẫn.
  • Vị trí thường gặp nhất là đốt sống ngực 12 và thắt lưng 1.
  • Đau thường liên quan đến cử động, khu trú vùng xương gãy, nhưng có thể lan ra phía trước bụng. Đau thường kéo dài khoảng 4-6 tuần.
  • Trong một số trường hợp gãy đốt sống không đau mà biểu hiện giảm chiều cao. Gãy 1 đốt có thể giảm 1cm, gãy nhiều đốt có thể giảm 10 – 20cm chiều cao. Xương sườn có thể chạm vào mào chậu.

Gãy xương tay, chân

  • Gãy đầu dưới xương quay và đầu trên xương đùi thường sau khi bị ngã.
  • Những yếu tố dễ gây ngã như mắt kém, giảm phối hợp động tác, bệnh khớp, bệnh thần kinh, dùng thuốc an thần và một số thuốc khác thường gặp ở người già. Ngã về phía trước thường gây gãy đầu dưới xương quay. Ngã về phía sau thường gây gãy cổ xương đùi.

Xác định mật độ xương bằng năng lượng

Đo hấp thụ photon năng lượng đơn (SPA):

  • Phương pháp SPA sẽ đo lượng chất khoáng ở chi, điển hình là cẳng tay. Chúng liên quan đến lượng Calci toàn cơ thể.
  • Đầu dưới xương quay có tỷ trọng xương xốp xấp xỉ 50%. Vì vậy đo ở đây có thể phát hiện mất xương tương đối sớm.

Đo hấp thụ photon năng lượng kép (DPA):

  • Phương pháp DPA sẽ đo lượng chất khoáng ở các vị trí sâu như đầu trên xương đùi và cột sống. Các thông số này rất có giá trị vì đây là những vùng xương thường hay bị gẫy nhất.

Đo hấp thụ tia X năng lượng kép (DEXA):

  • Đo mật độ xương bằng phương pháp DEXA được coi là tiêu chuẩn vàng để chẩn đoán loãng xương. Nhưng mới chỉ được áp dụng ở một số Bệnh viện và các cơ sở y tế tuyến trung ương.

Xác định mật độ xương bằng các phương pháp khác

Đo khối lượng xương bằng chụp cắt lớp vi tính (QCT):

  • QCT là một phương pháp mới đo tỷ trọng khoáng và có nhiều triển vọng.
  • Khác với tất cả các phương pháp khác, QCT cho biết tỷ trọng khoáng thực. Vì nó phản ánh tỷ trọng theo 3 chiều của xương (DEXA, DPA phản ánh tỷ trọng theo hai chiều).
  • Phân biệt bè xương, xương vỏ và phần Calci ngoài xương (có thể làm tăng giả tạo tỷ trọng xương khi đo bằng DEXA).
  • Tỷ lệ sai 5 – 10%, khả năng tái lập 4%. Bất lợi chủ yếu là liều bức xạ cao lặp lại nhiều lần, tổ chức tủy xương và mô dạng xương có thể tạo ra sai số. Hơn nữa giá thành cao, thời gian đo dài (15 phút). Do vậy phương pháp này ít được dùng để đo hàng loạt.

Đo mật độ xương bằng siêu âm định lượng:

  • Để phân biệt được giảm mật độ xương và loãng xương thực sự. Điều quan trọng là phải đo được khối lượng xương. Dựa vào đó người ta phân biệt các đối tượng.

Mật độ xương bình thường (BMD):

  • Khi mật độ xương không thấp hơn dưới một độ lệch chuẩn so với giá trị mật độ xương ở người trẻ trưởng thành cùng giới, tương đương với T-score ≥ -1.
  • Giảm mật độ xương: khi BMD từ -1,0 đến – 2,5 lần SD, tương đương với -2,5 < T-score < -1.
  • Loãng xương: Được xác định khi BMD ≥ – 2,5 lần SD (T-score ≤ -2,5).

Xét nghiệm hóa sinh

  • Osteocalci (BGP- bone-gla- protein) là một protein đặc hiệu của xương. Được tổng hợp từ tạo cốt bào và nguyên bào xương. Khi quá trình huỷ xương và tạo xương không đi đôi với nhau thì BGP là chỉ số sinh hóa đặc hiệu của tạo xương. Nó là một trong những xét nghiệm có tính đặc hiệu cao trong chẩn đoán loãng xương.
  • Phosphatase kiềm toàn phần và phosphatase kiềm (ALP) của xương. Hoạt tính của ALP toàn phần trong huyết thanh được sử dụng để đánh giá sự tạo xương nhưng độ nhạy và độ đặc hiệu không cao.
  • Calci niệu: là một thông số được sử dụng đề đánh giá sự hủy xương. Trên lâm sàng khi tỷ lệ Calci/Creatinin niệu khi đói tăng nghĩa là sự hủy xương tăng. Đây là phương pháp rẻ tiền, nhưng độ nhạy không cao.
  • Hydroxyprolin (OHP): được đào thải trong nước tiểu dưới dạng các peptid nhỏ. Nó là sản phẩm chuyển hóa chủ yếu của collagen trong cơ thể. Nồng độ OHP khi đói phản ánh sự phân hủy collagen của xương. Do đó, trên lâm sàng tỷ lệ OHP/Creatinin niệu khi đói được sử dụng để đánh giá sự hủy xương.
  • Pyridinolin(Pyr) và deoxypyridinoline (DPD): có ở collagen ở xương và sụn người đã trưởng thành. Riêng DPD chỉ có ở tổ chức xương. Hai thành phần này được giải phóng ra từ quá trình hủy xương bởi huỷ cốt bào. DPD có độ nhạy và độ đặc hiệu cao trong chẩn đoán loãng xương.
  • Phosphatase acid kháng tartrate trong máu (TRAP) là một sản phẩm của huỷ cốt bào. Nồng độ trong máu phản ánh hoạt động của hủy cốt bào.

DỰ PHÒNG LOÃNG XƯƠNG

  • Đảm bảo chế độ dinh dưỡng đầy đủ và hợp lý cho bà mẹ khi mang thai và cho con bú để trẻ có bộ xương tốt nhất. Đảm bảo chế độ dinh dưỡng và vận động cho trẻ để đạt mức phát triển bộ xương tốt nhất. Tránh các thói quen gây ảnh hưởng xấu đến chuyển hóa Calci như uống nhiều rượu, bia, hút thuốc lá, ăn kiêng quá mức, ít vận động thể lực… Từ 40 tuổi trở lên cần bổ sung Calci vào chế độ ăn uống hàng ngày và tăng cường các hoạt động thể lực ngoài trời.
  • Duy trì một lối sống lành mạnh, năng động kết hợp hài hòa giữa công việc hàng ngày. Hoạt động thể lực, giải trí… ngay từ khi còn nhỏ, còn trẻ.
  • Phát hiện và điều trị sớm các bệnh kèm theo, kiểm soát chặt chẽ các thuốc điều trị. Nếu phải dùng thuốc lâu dài trong điều trị các bệnh động kinh, viêm khớp, tuyến giáp, tuyến thượng thận… phải bổ sung thêm Vitamin D và Calci.
  • Phụ nữ mãn kinh nên dùng liệu pháp hormon thay thế để ngăn ngừa LX.
  • Phòng gãy xương là nhiệm vụ hàng đầu trong điều trị loãng xương. Để phòng loãng xương, ngoài chế độ ăn uống, hoạt động thể lực, bỏ rượu, thuốc lá. Còn có các bài tập chức năng duy trì khối lượng cơ, đảm bảo tư thế cột sống.

Nâng cao thể lực, tăng cường sức khỏe. Tăng khoáng chất cho xương, thông qua xây dựng chế độ ăn hợp lý, bổ sung đầy đủ Vitamin (đặc biệt là D3) và khoáng chất (Calci), đa dạng hóa bữa ăn. Trung bình nên bổ sung 800mg Calci/ngày cho người trưởng thành.

Tăng cường vận động giúp kích hoạt quá trình tạo xương trong cơ thể.

Hạn các yếu tố nguy cơ cao gây loãng xương như hút thuốc lá, sử dụng nhiều rượu bia, hạn chế chấn thương gây gãy xương. Phụ nữ không nên mang thai nhiều lần và khoảng cách giữa các lần quá gần…

Giảm mức độ trầm trọng của bệnh khi đã bị loãng xương. Thông qua vận động vừa sức, chế độ ăn hợp lý, kết hợp với bổ sung Calci bằng dược phẩm và thực phẩm chức năng. Đảm bảo bổ sung đủ Calci cho nhu cầu của cơ thể.

Giảm mức độ tàn tật, nâng cao chất lượng sống khi đã bị loãng xương nặng. Bằng cách tăng cường bổ sung chất dinh dưỡng cho người loãng xương nặng, đảm bảo hấp thụ hiệu quả. Đối với các trường hợp đã gãy xương do loãng xương. Nên điều trị tập trung và sử dụng các phương pháp vật lý trị liệu để phục hồi khả năng đi lại, duy trì chất lượng cuộc sống.

Hormon tổng hợp: Tibolone-livial® 2,5mg, là steroid tổng hợp đồng thời có hoạt tính của Estrogen yếu, Androgen và Progesteron, không kích thích tăng sinh nội mạc tử cung. Mỗi ngày một viên, dùng kéo dài.

Xu hướng hiện nay là dùng liệu pháp thay thế hormon trong 10 năm sau mãn kinh ở tất cả các phụ nữ không có chống chỉ định và chấp nhận.

  • Trẻ em dưới 15 tuổi cần 600 – 700mg Calci/ ngày
  • Trẻ trên 15 tuổi và người lớn cần 1000mg Calci/ ngày
  • Phụ nữ mang thai cần nhiều calci hơn 1200mg Calci/ ngày
  • Người già cần nhiều calci hơn vì khả năng hấp thu calci của họ thấp hơn. Với người trên 50 tuổi cần 1200mg Calci/ ngày

Bạn có thể mua Calci người lớn TẠI ĐÂY.

Bạn có thể mua Calci trẻ em đảm bảo hàm lượng Calci chuẩn TẠI ĐÂY.

Sữa và các chế phẩm của sữa (sữa chua, fomat) là thức ăn thuận tiện và giàu calci. Nên dùng sữa gầy là sữa có lượng chất béo thấp, không có đường và muối là nguồn calci rất tốt cho những người quan tâm đến việc duy trì cân nặng và giảm cholesterol máu. Cứ 250 ml sữa hay 200g sữa chua cho từ 130 – 300 mg calci (100g bánh mì, hoa quả, rau hay thịt chỉ cho từ 10 – 50 mg calci). Các loại rau đậu đều có trên 60mg calci trong 100g, trong đậu tương lượng Calci cao hơn (165mg%). Ngoài ra, các thực phẩm giàu calci còn có tôm, cua, cá. Tốt nhất là cá, tôm, cua kho nhừ ăn cả xương đây là nguồn calci hữu cơ tốt nhất, giúp cơ thể hấp thu và sử dụng được.

Ví dụ:

  • 100g cá dầu cung cấp 527mg Calci.
  • 100g tép nhỏ (tôm nhỏ) cung cấp 910mg Calci.
  • 100g cua đồng cung cấp 5040mg Calci.

Để thỏa mãn nhu cầu Calci của cơ thể, cần chú ý không những lượng calci ăn vào đủ mà cả các điều kiện đảm bảo hấp thu, đồng hóa tốt lượng calci đó. Khi tương quan giữa Calci với các thành phần khác của khẩu phần không thuận lợi thì một lượng 2 – 3g Calci mỗi ngày vẫn có thể chưa đáp ứng đủ nhu cầu của cơ thể.

Các điều kiện đó là:

  • Lượng Protid, Lipid, muối Natri trong khẩu phần ăn nên vừa phải, nếu cao sẽ làm tăng bài xuất Calci.
  • Đảm bảo tỷ lệ giữa Calci và Phospho cân đối tốt nhất là 1,5 – 2.
  • Hoạt động thể lực điều độ, không uống rượu nhiều, duy trì cân nặng nên có.

Nguyên tắc xây dựng thực đơn đủ dinh dưỡng và đủ calci:

  • Đảm bảo nhu cầu về năng lượng.
  • Đảm bảo cân đối về năng lượng: P : L : G = 12 – 14% : 18 – 20% : 68 – 70%
  • Đảm bảo cân đối về Protid: Tỷ lệ Protid động vật/Protid thực vật ở người lớn từ 30%/70% – 50%/50%; trẻ em từ 60%/40% – 70%/30%.
  • Đảm bảo cân đối về Lipid: Tỉ lệ lipid động vật/ lipid thực vật ở trẻ em và người trưởng thành là 70%/30%.
  • Với người trung niên và cao tuổi tỉ lệ Lipid động vật nên giảm đi, tuy nhiên không nên thay thế hoàn toàn chất béo động vật bằng chất béo thực vật.
  • Đảm bảo nhu cầu Calci theo lứa tuổi.

Không có biện pháp gì chữa khỏi hẳn bệnh loãng xương. Tuy nhiên chúng ta có thể làm chậm lại quá trình tiến triển bằng duy trì chế độ ăn đủ Calci phối hợp với dùng thuốc theo chỉ dẫn của thầy thuốc.

Tập thể dục buổi sáng 15 – 20 phút hàng ngày hoặc tập Yoga nhằm duy trì tư thế cột sống. Đi bộ nhanh theo tuổi 30 – 45 phút/ngày.

ĐIỀU TRỊ KHI ĐÃ CÓ LOÃNG XƯƠNG

  • Bổ sung Calci và Vitamin D: 1 gam/ngày và Vitamin D3 800Ul/ngày.
  • Vitamin D2 (Ergocalciferol): Sterogyl®: mỗi ống 20ml chứa 400UI. Liều theo chỉ định và sự thiếu hụt vitamin D3
  • Vitamin D3 BON®: Iml/ 200.000UI Cholecalciferol, tiêm bắp/uống.
  • Calcitriol: Rocaltrol® 0,25mcg/viên, ngày 1-2 viên.
  • Flour kết hợp với Calci: Flour 20 mg/ngày + 1 gam calci/ngày.
  • Giảm liều nếu phosphatase kiềm tăng trên 50%.

Chống chỉ định trong suy thận, tiền sử gãy cổ xương đùi, loãng xương với mật độ xương thấp. Có thể tăng khối lượng xương 5 – 10%/năm.

Một số thuốc khác: Seontium ranelate (Protelos) hormon tuyến cận giáp. Thực phẩm chức năng: Glucosamin.

Bạn có thể mua Vitamin D hàm lượng cao trong một giọt TẠI ĐÂY.

Là nhóm thuốc quan trọng nhất trong điều trị loãng xương vì làm giảm hoạt tính của tế bào huỷ xương và làm giảm chu chuyển xương bao gồm các nhóm thuốc:

  • Nhóm Bisphosphonates: có tác dụng làm tăng khối lượng và độ cứng của xương, đặc biệt là ở cột sống.
  • Calcitonin: có tác dụng chống hủy xương, giảm đau do hủy xương và làm giảm chu chuyển xương.
  • Nhóm hormon và các thuốc giống hormon: là nhóm thuốc có tác dụng ức chế hoạt động của tế bào hủy xương.
  • Loãng xương tuổi mãn kinh, typ I: kết hợp Estrogen và Progesteron để tránh tai biến ung thư tử cung. Livial (Tibolone) 1mg, 1 viên/ngày; Raloxifene 60mg, 1 viên/ngày.
  • Loãng xương người già, typ II: Testosteron (Andriol 40mg, 1 viên/ngày), hoặc Durabolin (Nandrolone phenylpropionat) 25mg, 1 ống/tuần (tiêm bắp).
  • Thyrocalcitonin (Miacalcic, Calcitar, Calsyn, Cibacalcin, là hoạt chất Calcitonin cá hồi tổng hợp), 50UI/ml/ống, tiêm bắp 1 ống/ngày hoặc cách ngày.
  • Một số thuốc khác: Bisphosphonate, thay thế hormon, Calcitonin… Bisphosphonate được sử dụng thông dụng nhất: Alendronate (Fosamax), Risedronate (Actonel), Ibandronic (Drofen).
  • Năng lượng: 30 – 35kcal/kg cân nặng lý tưởng/ngày.
  • Protein: 14 – 16% tổng năng lượng.
  • Lipid: 18 – 20% tổng năng lượng (trong đó 2/3 là acid béo không no).
  • Glucid: 68 – 64% tổng năng lượng.
  • Ăn nhạt, hạn chế Natri: < 2000mg Na/ngày (4 – 6g muối/ngày).
  • Tăng TP chứa nhiều Calci (tỷ lệ Ca/P= 1/1), nhiều Magnesi, nhiều Vitamin D và Kali: 4000 – 5000mg/ngày.
  • Đủ nước, Vitamin. Rau, hoa quả đạt 500g/ngày.

* Hạn chế rượu, bia, cà phê và các chất kích thích, lựa chọn thực phẩm.

* Thực phẩm nên dùng:

– Thực phẩm có hàm lượng Calci cao:

  • Các loại hải sản: tôm, tép, cua, các loại ốc, cá loại cá nhỏ. Đặc biệt các loại cá, dầu cá biển, nên ăn 3 – 4 lần/tuần.
  • Vừng đen/trắng.
  • Sữa bột tách béo, pho mát.
  • Các loại rau: rau cần, rau dền cơm, dền đỏ, rau dền trắng, rau đay, mộc nhĩ…

* Thực phẩm có nhiều Magie:

  • Nguồn thực vật: đậu xanh, đậu tương, khoai lang, lạc hạt, cùi dừa, rau ngót, mồng tơi, rau dền, rau lang.
  • Nguồn động vật: tôm đồng, cua bê, sò, cá thu.

– Thực phẩm nhiều Vitamin D: sữa, trứng, dầu cá, gan động vật, cá mòi, cá thu, đậu phụ.

* Thực phẩm hạn chế dùng:

  • Nhóm thực phẩm nhiều acid và hàm lượng đạm cao như các loại thịt đỏ (thịt chó, thịt bò, thịt bê, thịt trâu, thịt dê…); nhóm hoa quả có vị chua.
  • Các nhóm glucid tinh chế.
  • Các thực phẩm có hàm lượng Natri cao là các loại đồ hộp, đồ chế biến sẵn như giò, chả, pate, xúc xích, lạp xưởng, các loại dưa cà muối.
  • Rượu, bia, cà phê (ảnh hưởng đến quá trình chuyển hóa Vitamin D).
  • Các loại cá kho nhừ ăn cả xương.
  • Ăn vừa phải, hạn chế các cách chế biến thực phẩm chứa nhiều muối.
  • Tập dần theo từng bước, từng mức độ.
  • Tập thường xuyên, đừng bao giờ tập gấp đôi vào một ngày để rồi ngày kế tiếp không tập gì.
  • Hãy luyện tập cho đến khi cảm thấy việc luyện tập đã trở thành một thói quen trong cuộc sống.
  • Nên kiểm tra sơ bộ sức khoẻ trước khi bắt đầu một kế hoạch luyện tập.
  • Lúc đầu nên tập khoảng 15 phút/ngày, sau đó tăng dần thời gian tập dền 30 – 45 phút/ngày.

– Tập thể dục: Việc luyện tập đều đặn 30 phút/ngày giúp tăng cường sự cân bằng và duy trì độ dẻo dai của hệ thống xương, giảm nguy cơ loãng xương và gãy xương ở người cao tuổi. Khi luyện tập thể dục, cần lưu ý một số nguyên tắc sau:

  • Vận động cơ bắp nhịp nhàng từ từ ở mức độ vừa phải, cột sống được tập linh hoạt và uyển chuyển.
  • Trong trường hợp đã bị loãng xương khi tập thể dục cần tránh những động tác gây hại cho cột sống như: Trồng chuối ngược có thể làm lún, xẹp đốt sống.
  • Động tác cúi gập người nhanh về phía trước có thể làm gãy nứt đốt sống. Nhẩy tại chỗ mạnh cũng có thể làm xẹp đốt sống.

– Đi bộ tự do là môn thể thao rất đơn giản nhưng mang lại những lợi ích to lớn cho sức khỏe. Trước khi tập nên để 5 – 10 phút khởi động, không nên đi bộ lúc no. Với những người mới bắt đầu tập, nên đi bộ ít sau tăng dần. Bắt đầu đi 20 phút, 4 – 5 lần trong 1 tuần rồi tăng dần thời gian luyện tập không nên cố gắng quá sức. Tốc độ đi nhanh hay chậm không quan trọng bằng thời gian đi. Lúc đầu nên đi chậm, sau đó tăng nhanh hơn. Đi với tốc độ mà mình cảm thấy thoải mái là được.

– Nhảy dây là môn thể dục có tác động lớn nhất với việc củng cố và xây dựng xương, nên nhảy thẳng người.

Bác Sĩ Hướng

1 comment on “LOÃNG XƯƠNG – DINH DƯỠNG TRONG PHÒNG VÀ ĐIỀU TRỊ

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *