Trong quá trình đánh giá tình trạng dinh dưỡng, ngoài những chỉ số cơ bản, các bác sĩ thường chú ý đến những triệu chứng lâm sàng quan trọng. Nhằm tìm các triệu chứng như viêm lưỡi, giảm bề dày nếp gấp da, teo cơ, phù… Ngoài ra, còn các dấu hiệu khác như vết thương lâu lành, loét do nằm, nhược cơ, rụng tóc…
Đọc thêm: Giá trị dinh dưỡng của một số thực phẩm
CÁC SỐ ĐO NHÂN TRẮC
Nhân trắc học dinh dưỡng có mục đích xác định/đo lường các biến đổi về kích thước và cấu trúc cơ thể theo tuổi và tình trạng dinh dưỡng. Số đo nhân trắc được sử dụng để đánh giá tình trạng dinh dưỡng. Giúp theo dõi thay đổi về tình trạng dinh dưỡng và tình trạng mất khối cơ.
Phương pháp nhân trắc học có những ưu điểm là đơn giản, an toàn và có thể điều tra trên một mẫu lớn. Trang thiết bị không đắt, dễ vận chuyển. Có thể khai thác đánh giá được các dấu hiệu về TTDD trong quá khứ và xác định được mức độ suy dinh dưỡng. Tuy nhiên, phương pháp nhân trắc học cũng có một vài nhược điểm. Như không đánh giá được sự thay đổi về TTDD trong giai đoạn ngắn. Hoặc không nhạy để xác định các thiếu hụt dinh dưỡng đặc hiệu.
Các số đo nhân trắc là các số đo kết cấu cơ thể từ “bên ngoài”. Có vai trò rất quan trọng trong đánh giá tình trạng dinh dưỡng. Các số đo nhân trắc phân ánh cả tình trạng sức khỏe và tình trạng dinh dưỡng. Nó là chỉ số tiên lượng khả năng hoạt động, sức khỏe và sự sống còn. Cơ thể con người gồm khối cơ/nạc, dự trữ mỡ và nước.
Trong thực hành trên lâm sàng, các số đo thường dùng là: trọng lượng cơ thể (bao gồm cả tỷ lệ thay đổi trọng lượng), chiều cao (liên quan tới trọng lượng cơ thể dùng để xác định khối mỡ), khối mỡ (vòng cổ, BMI, bề dày lớp mỡ dưới da), khối cơ (vòng cánh tay), thành phần cơ thể, lượng nước.
Đọc thêm: Nhân trắc học – Wikipedia.
Trọng lượng cơ thể
Số đo trọng lượng đơn thuần không được sử dụng đặc hiệu đề xác định tình trạng dinh dưỡng. Nó thường kết hợp với các số đo khác như BMI. Xác định trọng lượng cơ thể thường xuyên có tác dụng rất quan trọng. Nó giúp ghi nhận thay đổi về trọng lượng theo thời gian và tính toán tỷ lệ tăng hoặc giảm cân.
Các yếu tố tác động tới trọng lượng cơ thể
Tình trạng giữ nước, phù: các nguyên nhân có thể là do giảm albumin huyết thanh, do thuốc (ví dụ: steroid), phản ứng cấp tính khi bị chấn thương, giảm chức năng của thận, tim, gan.
Mức độ chính xác của dụng cụ cân: dụng cụ cân thường xuyên được điều chỉnh. Nên lưu ý rằng cân nặng của cơ thể cũng thay đổi trong ngày. Do vậy, để có kết quả chính xác và phù hợp, cân nặng của bệnh nhân nên được cân bằng một loại cân nhất định tại một thời điểm nhất định trong ngày.
Phẫu thuật cắt cụt chi: là yếu tố giảm trọng lượng cơ thể. Có thể sử dụng bảng ước tính để xác định tỷ lệ giảm trọng lượng cơ thể.
Bó bột, nẹp: những dụng cụ này cũng làm tăng trọng lượng cơ thể. Bó bột chi trên thì trọng lượng có thể thêm 1kg, bó bột chi dưới thì tăng thêm tới 5kg. Tính toán BMI cần được lưu ý trong các trường hợp này.
Đọc thêm: Vai trò Vitamin D

Chiều cao
Chiều cao đứng có thể đo bằng thước đo chiều cao riêng biệt hoặc loại gắn trên tường.
Chiều dài cẳng tay
Là phương pháp dễ dàng và nhanh nhất với bệnh nhân nặng. Tính hợp thức khi đo cẳng tay trái. Tuy vậy, trong những trường hợp đặc biệt có thể đo cẳng tay phải.
Đo khối mỡ
Là phương pháp đo trên máy OROM dựa trên nguyên tắc đo điện trở kháng của cơ thể qua 2 điện cực
Vòng eo
Là chỉ số dự báo chính xác về khối mỡ bụng khi nó được dùng một mình hoặc kết hợp với chỉ số BMI. Khi bệnh nhân có vòng bụng lớn, ví dụ người béo phì hình “quả táo” thì đây là là một chỉ tiêu dự báo tốt về nguy cơ đối với sức khoẻ hơn so với người béo phì ngoại vi hình “quả lê”.
Béo bụng là chỉ số dự báo nguy cơ “độc lập” cho những người có BMI trong ngưỡng bình thường. Đối với người già, người châu Á, vòng eo là chỉ số tốt hơn BMI.
Chỉ số BMI
Là số đo gầy hoặc béo tốt hơn so với cân nặng đơn thuần. Nó là cách đánh giá tình trạng dinh dưỡng đơn giản; là một phần không thể thiếu trong các công cụ sàng lọc dinh dưỡng. Người càng có chỉ số BMI cao, càng có nguy cơ mắc bệnh như đái đường, tim mạch, nhuyễn xương, một số bệnh ung thư. Ngược lại, người có BMI càng thấp, càng có nguy cơ loãng xương và nguy cơ của các biến chứng liên quan tới thiếu dinh dưỡng. Sử dụng chỉ số khối cơ thể BMI (cân nặng/chiều cao bình phương) (kg/m2).
Đánh giá các chỉ tiêu hóa sinh, huyết học, thăm dò chức năng
Căn cứ vào tiền sử bệnh tật và đặc điểm lâm sàng, bác sĩ điều trị sẽ chỉ định những xét nghiệm hóa sinh, xét nghiệm huyết học, thăm dò chức năng phục vụ chẩn đoán bệnh, trong đó đã có thể có những xét nghiệm liên quan đến tình trạng dinh dưỡng của bệnh nhân.
Những xét nghiệm phục vụ đánh giá tình trạng dinh dưỡng bệnh nhân cũng được chỉ định tùy theo mặt bệnh và tình trạng hiện tại của bệnh nhân nhập viện để hỗ trợ chẩn đoán và đưa ra kế hoạch chăm sóc dinh dưỡng.
Dưới đây là một cách để phối hợp đánh giá mức độ suy dinh dưỡng theo các chỉ số hóa sinh:
SDD nhẹ | SDD trung bình | SDD nặng | |
% cân nặng so với cân nặng bình thường | 90 – 95 | 80 – 89 | < 80 |
Albumin (g/dl) | 2,8 – 3,4 | 2,1 – 2,7 | < 2,1 |
Transferrin (mg/dl) | 150 – 200 | 100 – 149 | < 100 |
CÁC PHƯƠNG PHÁP XÁC ĐỊNH KHỐI CƠ THỂ
Xác định tổng số khối kali
Tổng số khối Kali có thể sử dụng để xác định khối cơ thể vì hơn 90% kali của cơ thể có trong các mô không có mỡ.
Phương pháp DEXA (Dual – Energy X-Ray Absorptiometry):
Là công cụ xác định mật độ xương, nó có thể sử dụng để đo mô mỡ hoặc mô cơ.

Điều tra khẩu phần
Thu thập thông tin về khẩu phần ăn nhằm xác định xem loại và số lượng thực phẩm mà đối tượng sử dụng. Có nhiều phương pháp điều tra khẩu phần khác nhau như:
Phương pháp hỏi ghi 24 giờ.
Phương pháp cân đong.
Phương pháp xác định tần suất tiêu thụ lương thực thực phẩm.
Phương pháp ghi sổ kiểm kê…
Trong đó, phương pháp hỏi ghi 24 giờ và Phương pháp cân đong được sử dụng phổ biến hơn cả. Sau khi có được khẩu phần ăn của đối tượng tiến hành phân tích giá trị dinh dưỡng của khẩu phần.
Phương pháp nhớ lại 24 giờ qua (hỏi ghi 24 giờ): trước khi tiến hành thu thập số liệu, điều tra viên cần được tập huấn kỹ về mục đích, ý nghĩa, tầm quan trọng của cuộc điều tra, đặc biệt là kỹ thuật và kỹ năng điều tra. Nếu đối tượng là người lớn thì hỏi trực tiếp đối tượng.
Nếu đối tượng là trẻ em thì hỏi trực tiếp người cho trẻ ăn trong thời gian cần nghiên cứu. Có 2 cách ấn định khoảng thời gian cần thu thập thông tin và cần thống nhất ngay từ đầu cuộc điều tra: có thể hỏi ghi tất cả thực phẩm (và đồ uống) được đối tượng tiêu thụ trong 24 giờ kể từ lúc điều tra viên bắt đầu phỏng vấn trở về trước; hoặc hỏi ghi tất cả thực phẩm (và đồ uống) được đối tượng tiêu thụ trong 1 ngày hôm trước từ lúc ngủ dậy buổi sáng cho đến lúc đi ngủ buổi tối. Mẫu phiếu hỏi ghi các bữa ăn 24 giờ qua.
Đọc thêm:
THỨC UỐNG DINH DƯỠNG COLOS IgGOLD
Đánh giá tình trạng dinh dưỡng người bệnh
Đánh giá tình trạng dinh dưỡng bằng triệu chứng lâm sàng và nhân trắc học
Sàng lọc dinh dưỡng bệnh nhân và đánh giá tình trạng dinh dưỡng
Các công cụ sàng lọc và đánh giá dinh dưỡng ở người trưởng thành
4 comments on “Đánh giá tình trạng dinh dưỡng bằng triệu chứng lâm sàng và nhân trắc học”