Vai trò dinh dưỡng của iod là vô cùng quan trọng đối với cơ thể. Đó là thành phần cấu tạo các nội tiết tố của tuyến giáp trạng. Khẩu phần đủ iod là một trong các yếu tố có ảnh hưởng quyết định đến nội tiết tố của tuyến giáp trạng.

Khi thiếu iod tuyến giáp trạng tăng cường hoạt động, cô gắng bù trừ lượng thiếu và tuyến giáp trạng phì đại tạo nên bướu cổ.

Bướu cổ địa phương có mức độ khác nhau thường gặp ở một số người có khẩu phần nghèo iod. lod trong thức ăn được hấp thu ở ruột non và đi theo 2 đường chính. Khoảng 30% được sử dụng bởi tuyến giáp trạng để tạo hóc môn, phần còn lại ra theo nước tiểu.

Đọc thêm: thiếu iod – Wikipedia

Vai trò dinh dưỡng của iod tốt trong thức ăn là các sản phẩm ở biển và các loại rau trồng trên đất nhiều iod. Phần lớn ngũ cốc, các hạt họ đậu và củ có lượng iod thấp.

Phương pháp chắc chắn và thực tế nhất để có lượng iod đầy đủ là tăng cường iod cho muối ăn. Nhu cầu đề nghị cho người trưởng thành là 150mcg/ngày, ở phụ nữ có thai là 220mcg/ngày. Nhu cầu ở người mẹ cho con bú là 250mcg/ngày.

Đọc thêm: Giá trị dinh dưỡng của một số thực phẩm

vai trò dinh dưỡng của iod

Bên cạnh vai trò dinh dưỡng của iod, sắt cũng là một vi chất thiết yếu đối với sự sống. Sắt là thành phần của huyết sắc tố, myoglobin, các xytocrom và nhiều enzym như catalse, peroxidase. Sắt vận chuyển oxy và giữ vai trò quan trọng trong hô hấp tế bào.

Nhu cầu sắt thay đổi theo điều kiện sinh lý. Trẻ sơ sinh ra đời với một lượng sắt dự trữ khá lớn ở gan và lách. Ở lứa tuổi trưởng thành, nhu cầu sắt tăng lên do cơ thể phát triển nhiều tổ chức mới. Mỗi ngày, lượng sắt mất đi ở người trưởng thành vào khoảng 1mg ở nam và 0,8mg ở nữ.

Tuy nhiên, ở nữ lại có lượng sắt mất thêm theo kinh nguyệt vào khoảng 2mg/24 giờ. Nhu cầu của người mẹ có thai và cho con bú giống như phụ nữ trong thời kỳ kinh nguyệt.

Theo các chuyên viên của Tổ chức Y Tế thế giới, nhu cầu về sắt đối với thiếu niên và phụ nữ là 24 – 28mg/ 24 giờ.

Sắt có nhiều trong các thức ăn nguồn gốc động vật, các hạt họ đậu, nhất là đậu tương. Các loại rau quả là nguồn sắt quan trọng trong bữa ăn. Sắt trong thịt được hấp thu khoảng 30%, đậu tương là 20%, cá là 15% các thức ăn thực vật như ngũ cốc, các hạt họ đậu (trừ đậu tương) chỉ hấp thu 10%. Do sự có mặt của các phytat phosphat cản trở sự hấp thu sắt. Sắt trong rau quả do sự có mặt của vitamin C là yếu tố hỗ trợ quá trình hấp thu sắt.

Sắt được hấp thu chủ yếu ở tá tràng theo hình thức vận chuyển chủ động, dễ hấp thu khi ở dạng ferrous (Fe2+). Nhưng sắt trong thức ăn thường ở dạng ferric (Fe3+). Các yếu tố như acid HCl, vitamin C chuyển Fe3+ thành Fe2+ nên có tác dụng làm tăng hấp thu sắt.

Vì vậy, những bệnh nhân cắt dạ dày thường bị thiếu máu do thiếu sắt. Trong điều trị, khi sử dụng sắt cần phải cho thêm vitamin C.

Đọc thêm: Thiếu máu dinh dưỡng

Nước là thành phần cơ bản của tất cả các tổ chức và dịch thể. Mọi quá trình chuyển hóa trong tế bào và mô chi xảy ra bình thường khi đủ nước. Người ta có thể nhịn ăn để sống trong 3-4 tuần nếu mỗi ngày tiêu thụ 300-400ml nước nhưng sẽ chết trong vòng 4-5 ngày nếu không được uống nước.

Nguồn nước cho cơ thể là ăn, uống và sản phẩm của quá trình chuyển hóa protid.lipid, glucid trong cơ thể. Cơ thể mắt nước qua da một ngày trung bình 0,5 – 0,8 lít nước, khi trời nóng có thể tới 10 lít, qua phổi 0,5lít, qua thận 1,2-1,5 lít và qua ống tiêu hóa 0,1 5lít, khi tiêu chảy có thể tới mấy lít.

vai trò dinh dưỡng của iod

Cân bằng nước ở người trưởng thành

Nguồn nước vàoSố lượngNguồn nước raSố lượng
Ăn1000Phổi550
Uống1500Da600
Chuyển hóa300Nước tiểu1500
Phân150
Tổng cộng28002800

Rối loạn chuyển hóa nước thường xảy ra ở một số bệnh như sốt cao, tiêu chảy, nôn nhiều, mất máu, … hoặc lao động trong điều kiện quá nóng ra mồ hôi nhiều.

Trong các trường hợp đó, việc bù nước và điện giải để duy trì thường xuyên, cân bằng nước và điện giải là rất cần thiết để bảo vệ sức khỏe.

Nước được hấp thu thụ động theo chất hòa tan để cân bằng áp suất thẩm thấu, trong đó Na+ và glucose đóng vai trò quan trọng đối với sự hấp thu nước.

Hai chất này có sự hỗ trợ hấp thu lẫn nhau và sự hấp thu của chúng kéo theo nước. Vì vậy, khi có mặt của Na+ và glucose, sự hấp thu nước tăng lên rất mạnh, đây là cơ sở quan trọng cho việc bù nước và điện giải bằng oresol đề điều trị tiêu chảy mất nước.

Đọc thêm: Dinh dưỡng cho phụ nữ mang thai và cho con bú

Đọc thêm:

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *