Trong thực hành lâm sàng hiện nay, chẩn đoán viêm phổi ngày càng trở nên quan trọng bởi sự đa dạng của các tác nhân virus và mức độ nguy hiểm của bệnh ở trẻ nhỏ. Các triệu chứng viêm phổi thường diễn tiến nhanh, đặc biệt trong các trường hợp viêm phổi do virus, khiến phụ huynh cần theo dõi sát sao. Đối với nhóm viêm phổi ở trẻ em, việc phát hiện sớm và tuân thủ đúng phác đồ điều trị viêm phổi giúp giảm nguy cơ biến chứng và rút ngắn thời gian hồi phục.


CHẨN ĐOÁN

Để tăng cường hiệu quả cho quá trình chẩn đoán viêm phổi, cần hiểu rõ vai trò của từng dấu hiệu lâm sàng. Các triệu chứng viêm phổi như ho, thở nhanh hoặc khò khè là những yếu tố định hướng quan trọng, đặc biệt trong các thể viêm phổi do virus thường gặp ở trẻ nhỏ. Trong bối cảnh viêm phổi ở trẻ em, mỗi biểu hiện bất thường đều cần được đánh giá đúng để quyết định chiến lược điều trị viêm phổi phù hợp.

chẩn đoán viêm phổi

Chuẩn đoán xác định

  • Hội chứng viêm long đường hô hấp trên.
  • Triệu chứng tại phổi: khò khè, thở nhanh, khó thở. Phổi có tổn thương: ran ẩm hoặc ran rít, ran ngáy.
  • Chụp X-quang: viêm phổi kẽ.
  • Tìm được virus trong dịch mũi, dịch tỵ hầu, đờm.

Đối với các trường hợp có diễn tiến nhanh, việc chẩn đoán viêm phổi sớm giúp phân loại nhóm nguy cơ và xác định hướng điều trị. Các triệu chứng viêm phổi có thể rất kín đáo trong giai đoạn đầu nhưng trở nên rõ rệt hơn khi bệnh tiến triển. Điều này đặc biệt quan trọng trong nhóm viêm phổi do virus, vốn gây biến chứng nặng nếu không được theo dõi. Ở trẻ nhỏ, viêm phổi ở trẻ em thường biểu hiện đa dạng và cần sự đánh giá chuyên môn để tránh trì hoãn điều trị viêm phổi.

Chẩn đoán viêm phổi theo nguyên nhân

Để hiểu rõ hơn về cách phân loại và nhận diện trong chẩn đoán viêm phổi, phụ huynh có thể tham khảo thêm hướng dẫn sức khỏe tại: https://yhocvasuckhoe.com.vn/. Một số tác nhân gây viêm phổi do virus được mô tả chi tiết trên trang Wikipedia tại địa chỉ: https://vi.wikipedia.org/wiki/Viêm_phổi. Việc nhận diện đúng triệu chứng viêm phổi giúp quá trình điều trị viêm phổi hiệu quả hơn, đặc biệt trong bệnh cảnh viêm phổi ở trẻ em.


Viêm phổi do cúm

Chẩn đoán chủ yếu dựa vào lâm sàng với triệu chứng khởi phát sốt, đau họng, đau đầu, đau mình mẩy, mệt mỏi, ho, chảy mũi. Sau đó triệu chứng tại đường hô hấp rõ lên, trẻ có thở nhanh, khó thở, tím hoặc suy hô hấp tùy theo mức độ nặng của bệnh. Tổn thương phổi trên lâm sàng không điển hình. Chụp X-quang tim phổi có hình ảnh viêm phổi kẽ. Xét nghiệm phản ứng chuỗi polymerase dịch tỵ hầu tìm thấy virus cúm.

Cúm A H5N1 thường nuôi cấy được trong giai đoạn từ ngày thứ hai đến ngày thứ năm, đôi khi có thể đến ngày thứ bảy của bệnh. Triệu chứng khởi phát thường là sốt, ho, mệt mỏi, đau cơ, đau đầu, đau họng, đau bụng, nôn và tiêu chảy. Các triệu chứng ở đường tiêu hóa đôi khi làm chẩn đoán nhầm sang bệnh dạ dày ruột. Khi biểu hiện viêm phổi đã rõ, trẻ thường có triệu chứng ho, sau đó là các triệu chứng khó thở, thở nhanh và đau ngực. Trong trường hợp nặng có thể có các dấu hiệu màng não, suy tim, suy thận, suy đa phủ tạng và rối loạn đông máu.

Cúm A H1N1 có biểu hiện lâm sàng tương tự cúm mùa. Sốt và ho là triệu chứng nổi trội. Sau đó trẻ có các biểu hiện theo thứ tự hay gặp là thở nhanh, mệt mỏi, ớn lạnh, đau mỏi cơ, chảy mũi, đau họng, đau đầu, nôn, khò khè và tiêu chảy.

Việc phân biệt các chủng cúm trong chẩn đoán viêm phổi giúp định hướng điều trị thích hợp hơn. Các triệu chứng viêm phổi liên quan cúm thường diễn tiến nhanh, đặc biệt ở trẻ nhỏ – nhóm dễ bị tác động mạnh bởi viêm phổi do virus. Trong thực tiễn, viêm phổi ở trẻ em do cúm thường cần theo dõi sát để đảm bảo tiến trình điều trị viêm phổi không bị chậm trễ.


Viêm phổi do virus hợp bào hô hấp

Bệnh nhân có tính chất thành các vụ dịch lẻ tẻ tại các chỗ đông người như nhà trẻ, trường học. Nếu nghi ngờ viêm phổi do virus hợp bào hô hấp, phết lam kính dịch mũi tìm virus. Trẻ em, đặc biệt là trẻ nhỏ cần phải kiểm tra virus này vì chúng khá nguy hiểm khi mắc ở trẻ nhỏ, nhất là trẻ dưới hai tuổi.

Nhóm nguy cơ gây viêm phổi cao là nhóm trẻ dưới sáu tháng tuổi, có bệnh phổi mạn, tim bẩm sinh, trẻ hen phế quản. Trẻ mắc các bệnh nặng hoặc suy giảm miễn dịch cũng thuộc nhóm nguy cơ. Virus hợp bào hô hấp hiếm khi gây bệnh hoặc thường gây bệnh rất nhẹ ở người lớn. Nó thường gây các triệu chứng viêm đường hô hấp trên kéo dài, ho kéo dài kết hợp khò khè.

Nhiễm virus hợp bào hô hấp gây viêm phổi nặng trên bệnh nhân ghép tạng. Trường hợp viêm phổi nặng với tế bào khổng lồ nhiễm virus hợp bào hô hấp được tìm thấy ở bốn đến mười phần trăm các trường hợp. Bệnh nhân thường có đồng nhiễm với các virus khác như virus Epstein-Barr, virus Cytomegalovirus hoặc Adenovirus.

chẩn đoán viêm phổi

Ở người bình thường, virus hợp bào hô hấp gây nhiễm khuẩn đường hô hấp trên, viêm phế quản, viêm tiểu phế quản và viêm phổi. Chẩn đoán phân biệt giữa viêm tiểu phế quản và viêm tiểu phổi do virus hợp bào hô hấp thường rất khó vì có chung triệu chứng như khò khè, tổn thương thực thể tại phổi, suy hô hấp. So với cúm, virus hợp bào hô hấp hay gây chảy mũi, ho có đờm và khò khè, nhưng ít gây ra các triệu chứng tại đường tiêu hóa và sốt.


Viêm phổi do Adenovirus

Triệu chứng nhiễm Adenovirus bao gồm sốt, mệt mỏi, đau đầu, đau họng, khàn tiếng và ho. Viêm kết mạc và tiêu chảy cũng là triệu chứng thường gặp. Cấy tìm virus vào ngày thứ tư đến thứ năm của bệnh. Nhiễm Adenovirus loại 14 thường gây viêm phổi.

Trên người suy giảm miễn dịch, sốt là triệu chứng nổi trội kèm các triệu chứng của dạ dày ruột. Cho dù Adenovirus được phân lập ở đường thở, triệu chứng đường hô hấp thường không nổi trội và triệu chứng viêm phổi thường không điển hình. Bệnh nhân có thể có các triệu chứng toàn thân như viêm dạ dày ruột, viêm gan và chảy máu bàng quang.


Viêm phổi do virus á cúm

Biểu hiện lâm sàng của nhiễm virus á cúm thay đổi từ nhiễm khuẩn đường hô hấp trên đến viêm thanh quản nặng, viêm tiểu phế quản hoặc viêm phổi nặng trên bệnh nhân suy giảm miễn dịch. Nuôi cấy tìm virus từ ngày thứ nhất đến ngày thứ ba của bệnh.

Á cúm loại một và loại hai chủ yếu gây viêm đường hô hấp trên và viêm thanh quản. Á cúm loại ba gây viêm tiểu phế quản và viêm phổi. Triệu chứng viêm phổi do virus á cúm không điển hình, hay gặp ở trẻ nhỏ, triệu chứng tương tự nhưng nhẹ hơn viêm phổi do virus hợp bào hô hấp. Triệu chứng thường gặp là ho, chảy mũi, khó thở, phổi có ran và khò khè.


Viêm phổi do Metapneumovirus ở người

Triệu chứng nhiễm virus metapneumovirus ở người tương tự các virus khác: ngạt mũi và ho là hai triệu chứng hay gặp nhất. Các triệu chứng khác bao gồm chảy mũi, khó thở, khò khè, ho có đờm, khàn tiếng và đau họng. Nuôi cấy virus vào ngày thứ năm đến ngày thứ sáu của bệnh.

Trên các bệnh nhân ghép tạng hoặc suy giảm miễn dịch, virus metapneumovirus gây viêm phổi nặng và suy hô hấp.


Viêm phổi do Coronavirus

Triệu chứng gây bệnh tương tự các virus đường hô hấp khác, bao gồm ho, chảy mũi, đau họng, đau đầu và mệt mỏi. Sốt gặp khoảng một phần năm số trường hợp. Virus nên được nuôi cấy trong khoảng thời gian từ ngày thứ hai đến ngày thứ năm của bệnh, trung bình ba ngày.

Năm 2003, virus SARS-Coronavirus gây đại dịch với biểu hiện lâm sàng hội chứng suy hô hấp cấp nặng. Bệnh nhân thường khởi phát như nhiễm cúm, sau đó suy hô hấp rất nhanh và nặng. Bệnh hay gặp trên bệnh nhân có tiền sử tiếp xúc với người bị bệnh SARS trong vòng mười ngày hoặc đi du lịch ở vùng dịch SARS lưu hành.


Viêm phổi do thủy đậu

Chẩn đoán viêm phổi do thủy đậu có thể dựa vào lâm sàng, khi có dịch thủy đậu và trẻ mắc thủy đậu. Viêm phổi do thủy đậu thường là biến chứng, gặp với tỷ lệ một trên bốn trăm ca thủy đậu.

Viêm phổi do thủy đậu tiến triển từ ngày thứ nhất đến ngày thứ sáu sau khi ban thủy đậu xuất hiện. Bệnh nhân xuất hiện triệu chứng sốt, đau ngực, nhịp thở nhanh, khó thở, ho khan, tím tái. Trẻ có thể có tràn dịch màng phổi và ho ra máu.

Chụp X-quang tim phổi thấy hình ảnh viêm phổi. Viêm phổi do thủy đậu thường nhẹ, tuy nhiên bệnh có thể nặng và gây tử vong, đặc biệt trên cơ địa suy giảm miễn dịch.


Viêm phổi do sởi

Bệnh nhân thường có triệu chứng mắc sởi như sốt, mệt mỏi, chán ăn, ho, chảy mũi và xuất hiện các hạt Koplik trong niêm mạc miệng. Ban đỏ dạng chấm toàn thân mọc theo thứ tự từ mặt xuống chân.

Viêm phổi là biến chứng của sởi. Biến chứng thường xảy ra trên trẻ thiếu vitamin A, suy giảm miễn dịch hoặc trẻ không được tiêm chủng vắc-xin sởi. Có bốn dạng viêm phổi biến chứng của sởi:

  • Dạng một: sởi gây viêm phổi, thường xảy ra ngay sau khi ban xuất hiện.
  • Dạng hai: vi khuẩn xâm nhập trên nền bệnh nhân đang bị sởi.
  • Dạng ba: viêm phổi tế bào khổng lồ tiến triển trước hoặc trong thời điểm ban sởi bùng phát.
  • Dạng bốn: viêm phổi trên bệnh nhân sởi không điển hình, thường gặp ở người lớn.

Viêm phổi do Herpes Simplex Virus

Virus Herpes Simplex thường gây viêm phổi trên người có suy giảm miễn dịch nặng, truyền máu, sử dụng thuốc corticoid kéo dài, chấn thương cục bộ hoặc bỏng.

Bệnh nhân viêm phổi do virus Herpes thường có triệu chứng khó thở, khò khè, sốt, ho, ho ra máu, đau ngực kèm theo dấu hiệu khó nuốt, tổn thương gan và dấu hiệu thần kinh.


Viêm phổi do Cytomegalovirus

Viêm phổi do Cytomegalovirus thường rất nhẹ ở trẻ khỏe mạnh. Bệnh khởi phát giống hội chứng tăng bạch cầu đơn nhân, bao gồm mệt mỏi, sốt, đau mỏi cơ và viêm gan nhẹ nhưng không có lách hạch to.

Viêm phổi do Cytomegalovirus hay xảy ra trên bệnh nhân ghép tạng hoặc dùng thuốc ức chế miễn dịch kéo dài. Bệnh xảy ra trên mười đến ba mươi phần trăm bệnh nhân sau ghép tạng và thường xuất hiện vào ngày thứ bốn mươi bốn sau ghép.


TIẾN TRIỂN

Hầu hết bệnh tiến triển từ từ, thường không nặng. Hầu hết viêm phổi do virus khỏi hoàn toàn sau một đến hai tuần. Ho có thể kéo dài hơn.

Tuy nhiên, có một số trường hợp biến chứng nặng, thậm chí tử vong. Nguy cơ biến chứng thường gặp ở trẻ nhỏ, người suy giảm miễn dịch hoặc trẻ có bệnh phổi hoặc bệnh tim mạn tính.

Nếu trẻ được điều trị tại nhà, cần tái khám sau một đến bốn tuần. Trẻ cần kiểm tra lại chụp X-quang tim phổi để đảm bảo tổn thương phổi hồi phục.


ĐIỀU TRỊ

Nguyên tắc

  • Không có điều trị đặc hiệu đối với đa số viêm phổi do virus.
  • Phòng chống suy hô hấp.
  • Hạn chế hoạt động gắng sức.
  • Điều trị triệu chứng: hạ sốt, giảm đau.
  • Viêm phổi do virus có thể điều trị tại nhà bằng cách nghỉ ngơi và uống nhiều nước.

Điều trị cụ thể

Chống suy hô hấp

  • Để bệnh nhân nằm ở nơi yên tĩnh, không khí được làm ẩm, giúp đờm loãng và dễ khạc ra ngoài.
  • Cho thở oxy nếu có suy hô hấp.

Chống nhiễm khuẩn

  • Kháng sinh không có tác dụng trong viêm phổi do virus.
  • Thuốc chống virus được chỉ định khi viêm phổi nặng, có tác dụng tốt nếu dùng trong một đến hai ngày đầu.
  • Nếu nghi ngờ viêm phổi do cúm, nên dùng thuốc chống cúm trong ba mươi sáu giờ đầu khi có triệu chứng.

Điều trị triệu chứng

  • Không dùng thuốc giảm ho, chỉ dùng thuốc long đờm.
  • Dùng thuốc hạ nhiệt nếu có sốt cao.
  • Bù dịch nếu bệnh nhân bị mất nước.

PHÒNG BỆNH

  • Virus lây lan chủ yếu qua đường không khí và giọt bắn.
  • Rửa tay và hạn chế tiếp xúc với người ho hoặc hắt hơi.
  • Đeo khẩu trang khi ở vùng có dịch cúm hoặc SARS.
  • Tiêm vắc-xin cúm hằng năm giúp giảm nguy cơ viêm phổi do cúm.
  • Tiêm chủng thủy đậu nếu chưa từng mắc bệnh.
  • Cách ly bệnh nhân nghi ngờ viêm phổi do cúm.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *